Bất cập của Luật trọng tài thương mại năm 2010 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Bất cập của Luật trọng tài thương mại năm 2010

Bất cập của Luật trọng tài thương mại năm 2010

Bài viết dưới đây thông tin đến bạn về Bất cập của Luật trọng tài thương mại năm 2010. Để thúc đẩy hoạt động đầu tư và kinh doanh trong giai đoạn hội nhập hiện nay, Việt Nam đã có nhiều cam kết và hành động mạnh mẽ để cải cách theo hướng kiến tạo nhiều hơn nữa, với mục tiêu xây dựng một môi trường đầu tư kinh doanh với nhiều điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể làm ăn lâu dài, bền vững tại Việt Nam.

1. Tổng hợp văn bản hướng dẫn Luật trọng tài thương mại 2010

1. Luật Trọng tài thương mại 2010

2. Nghị định 63/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại

3. Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

4. Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 110/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

5. Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Quy định Luật Trọng tài thương mại

2. Những bất cập của Luật Trọng tài thương mại   

Luật TTTM được đánh giá là một bước tiến tích cực nhằm xây dựng cơ chế TTTM tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Luật TTTM đã tiếp thu được những nguyên tắc cơ bản nhất về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên thế giới và trong Luật Mẫu UNCITRAL như nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, tính độc lập của thỏa thuận trọng tài và quyền được tự xem xét vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, tính chung thẩm của phán quyết trọng tài, và nguyên tắc bảo mật. Những nguyên tắc cơ bản này là cơ sở đảm bảo hoạt động trọng tài tại Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trọng tài thế giới và quan trọng hơn là đưa trọng tài trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, công bằng cho các bên[2].
Việc ngày càng hoàn thiện khung pháp lý về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã thể hiện sự phù hợp đối với Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách ngành tư pháp đến năm 2020, là “hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tố tụng tư pháp theo chủ trương khuyến khích giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải và trọng tài”. Đây là một trong các điều kiện đủ để tạo nên một môi trường đầu tư kinh doanh ổn định và hấp dẫn.
Ở Việt Nam, từ sau khi có Luật TTTM, hoạt động TTTM đã từng bước được củng cố và phát triển. Số lượng vụ, việc được giải quyết bằng trọng tài đang có xu hướng tăng, loại tranh chấp được trọng tài giải quyết cũng đa dạng hơn[3], đồng thời, chất lượng giải quyết tranh chấp ngày càng được nâng cao, hoạt động trọng tài đang dần đi theo hướng chuyên nghiệp. Hoạt động trọng tài trong thời gian qua góp phần giải quyết các tranh chấp thương mại nhanh chóng, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, giảm tải cho hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và các ngành dịch vụ theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, hiện nay vẫn còn một số vấn đề trong việc áp dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại gây ra lo lắng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Căn cứ như sau:
Thứ nhất, liên quan đến địa điểm tiến hành trọng tài. Trong các vụ việc liên quan đến trọng tài quốc tế, việc lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài đồng nghĩa với việc lựa chọn luật của quốc gia tại nơi tiến hành trọng tài. Đây là điều mà Luật TTTM chưa xác định rõ. Hơn nữa, Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (Lex arbitri) bị quy định bởi các quy tắc của chính sách công và “trật tự công cộng” (public order) của quốc gia ban hành ra đạo luật này[4], trong khi ở Việt Nam, khái niệm này không thông dụng, các văn bản hướng dẫn cũng như các tài liệu nghiên cứu cũng chưa đề cập một cách thích đáng. Trước đây, Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã dùng khái niệm: “các nguyên tắc của hệ thống pháp luật XHCN” khi quy định: “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm các nguyên tắc của hệ thống pháp luật XHCN”. Trong quá trình áp dụng Pháp lệnh, đã có nhiều ý kiến cho rằng khái niệm này tạo nhận thức chung chung, mơ hồ, dễ gây tùy tiện cho các bên và cho trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp và đặc biệt gây khó khăn cho các bên là người nước ngoài. Luật TTTM ngoài việc tiếp tục sử dụng khái niệm này, khoản 3, Điều 14 về “Luật áp dụng”, Điều 4(1) quy định “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”. Thiết nghĩ rằng, khái niệm “điều cấm” hay “đạo đức xã hội” vẫn tiếp tục là những khái niệm không kém phần khó hiểu và mơ hồ, không có nhiều điểm chung với khái niệm “trật tự công” mà Luật mẫu và các Công ước và nhiều Quy tắc trọng tài trên thế giới đã ghi nhận. Điều đó sẽ là một trong những trở ngại đối với các bên chủ thể tranh chấp có yếu tố nước ngoài, yếu tố quốc tế cũng như đối với các trọng tài viên Việt Nam.
Thứ hai, lý do hủy quyết định trọng tài thường ở dạng “trừu tượng” nên nguy cơ một bên yêu cầu tòa án can thiệp để làm chậm việc thi hành quyết định trọng tài vì trong khi xem xét hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết này không thể được thi hành[5]. Một trong các lý do để các doanh nghiệp lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp của mình đó là khả năng thi hành của phán quyết trọng tài bởi phán quyết của trọng tài Việt Nam sẽ được thi hành tương tự như bản án của tòa án tại Việt Nam và hơn thế, có khả năng thi hành tại 155 quốc gia thành viên khác của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Do đó, việc đảm bảo khả năng thi hành của phán quyết trọng tài là một điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp cân nhắc khi chọn sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Một trong những mục đích ban hành Luật TTTM là hạn chế việc hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tỷ lệ thi hành phán quyết trọng tài tại Việt Nam là rất đáng lo ngại[6] Điều này làm giảm niềm tin và hiệu quả của phương thức trọng tài, môi trường pháp lý và kinh doanh của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Một trong số nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là do quy định của Luật TTTM không chặt chẽ, thiếu rõ ràng. Điều 68 Luật TTTM về Căn cứ hủy phán quyết trọng tài quy định, “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” (điểm đ khoản 2). Phạm trù “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam’ là quá chung chung, không rõ ràng. Vì vậy, việc áp dụng tùy tiện điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM là không thể tránh khỏi. Điều này dẫn đến nguy cơ phán quyết trọng tài bị huỷ là rất cao.
Thứ ba, về thủ tục hủy quyết định trọng tài. Theo khoản 10 Điều 71 Luật TTTM, quyết định hủy phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng có hiệu lực thi hành. Điều này có nghĩa, đối với quyết định của Tòa án về hủy phán quyết trọng tài, các bên hội đồng trọng tài không có quyền khiếu nại, các đương sự không có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị. Quy định này đã thực sự hợp lý hay chưa? Toà án là cơ chế giám sát bảo đảm tính thượng tôn pháp luật và các giá trị vĩnh cửu của hệ thống pháp luật áp dụng nhưng ai sẽ là người giám sát toà án nếu Tòa án có vi phạm hoặc ra quyết định chưa thỏa đáng gây ảnh hưởng lớn tới quyền lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, vì hiện nay không có phúc thẩm và giám đốc thẩm lại các quyết định huỷ phán quyết của trọng tài do Toà án đưa ra.
Thứ tư, Điều 14 Luật TTTM quy định về luật áp dụng giải quyết tranh chấp như sau: “1. Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; 2. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất; 3. Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập cửa hàng quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Nếu nhìn nhận quy định này từ góc độ của nguyên tắc quyền tự do định đoạt của các bên tranh chấp thì quy định này là một cản trở pháp lý của quyền tự do. Bởi lẽ,  quy định “đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”, đồng nghĩa với việc hạn chế quyền lựa chọn luật áp dụng đối với các bên tranh chấp là công dân Việt Nam.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com