Điểm mới của Luật Lâm nghiệp 2017 so với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điểm mới của Luật Lâm nghiệp 2017 so với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004

Điểm mới của Luật Lâm nghiệp 2017 so với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004

Luật Lâm nghiệp đã được Quốc hội khóa XIV, tại Kỳ họp thứ 4, biểu quyết thông qua ngày 15/11/2017. Có hiệu lực từ ngày 01/01/2019. So với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã quy định một số nội dung mới như sau:

Về kết cấu của Luật:

Luật Lâm nghiệp năm 2017 có 12 chương với 108 điều, tăng 04 chương và 20 điều so với  Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004.

Về nội dung Luật Lâm nghiệp có 10 điểm mới:

            Thứ nhất:

Luật Lâm nghiệp đã mở rộng phạm vi điều chỉnh theo hướng liên kết theo chuỗi các hoạt động lâm nghiệp từ quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, kinh doanh, chế biến và thương mại lâm sản; thể hiện rõ lâm nghiệp là ngành kinh tế – kỹ thuật đặc thù, gồm tất cả các hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ liên quan đến rừng. Đây là một trong những điểm mới cần thiết nhất, có liên quan đến toàn bộ nội dung cũng như cấu trúc của Luật.

            Thứ hai:

Luật đã thể chế hóa chế định sở hữu rừng theo hướng dẫn Hiến pháp năm 2013; quy định 2 nhóm cách thức sở hữu rừng: rừng sở hữu toàn dân do Nhà nước là uỷ quyền chủ sở hữu gồm rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước đầu tư đã giao hoặc chưa giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; rừng sở hữu do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư gồm rừng trồng do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đầu tư; nhận chuyển nhượng, tặng cho, nhận thừa kế rừng từ chủ rừng khác theo hướng dẫn của pháp luật.

            Thứ ba:

Quy định về chế biến và thương mại lâm sản để kết nối với giai đoạn bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng tạo thành chuỗi giá trị sản phẩm lâm nghiệp. Luật tập trung quy định rõ chính sách phát triển lâm sản theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp hợp tác, liên doanh, liên kết với chủ rừng để tạo vùng nguyên liệu, quản lý bền vững, tiêu thụ sản phảm, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới; việc chế biến mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng; hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam; chính sách phát triển thị trường lâm sản.

            Thứ tư:

Luật quy định quản lý rừng bền vững, đây là nguyên tắc xuyên suốt của hoạt động lâm nghiệp bảo đảm rừng được quản lý bền vững cả về diện tích rừng, chất lượng rừng, kết hợp hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học, nâng cao giá trị dịch vụ môi trường rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ rừng phải thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý rừng bền vững, bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài, liên tục; tối ưu hóa hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường; chủ rừng là tổ chức phải xây dựng, thực hiện phương án quản lý rừng bền vững; Nhà nước quy định bộ tiêu chí quản lý rừng bền vững và tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.

            Thứ năm:

Luật quy định cụ thể về giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, tổ chức quản lý rừng, điều tra, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và cơ sở dữ liệu rừng; quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, cộng đồng dân cư là chủ rừng; kết cầu hạ tầng phục vụ bảo vệ và phát triển rừng để bảo đảm rừng có chủ thực sự, đủ điều kiện để bảo vệ, phát triển rừng và hiệu lực quản lý nhà nước về rừng.

            Thứ sáu:

Luật quy định chặt chẽ việc quản lý rừng tự nhiên, chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên. Không chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, trừ dự án cần thiết quốc gia; dự án phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia; dự án cấp tiết khác do Chính phủ phê duyệt. Rừng sản xuất là rừng tự nhiên được khai thác theo phương án quản lý rừng bền vững. Trong trường hợp cần thiết sẽ thực hiện tạm dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên trong một thời gian nhất định để bảo vệ rừng tự nhiên hiện có và có thời gian để rừng sinh trưởng, phục hồi, đảm bảo an ninh môi trường, đáp ứng nhu cầu lâu dài về lâm sản.

            Thứ bảy:

Luật quy định khai thác lợi ích phi lâm sản từ rừng như dịch vụ môi trường rừng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống con người. Tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ môi trường rừng phải chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho con người trực tiếp bảo vệ và phát triển rừng. Đây cũng là điểm mới tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc chuyển hướng khai thác lợi ích tiềm năng của rừng, từ sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ sang sản phẩm phi gỗ, tạo nguồn tài chính bền vững để đầu tư trực tiếp vào rừng.

            Thứ tám:

Về đổi mới tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp. Luật đã quy định khung về đơn vị có chức năng tham mưu quản lý nhà nước chuyên ngành về lâm nghiệp và tổ chức kiểm lâm. Trên cơ sở đó Chính phủ quy định chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các đơn vị này, tạo sự linh hoạt và đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động lâm nghiệp. Đối với Kiểm lâm, bổ sung quy định cụ thể hơn trong Luật một số cơ chế, chính sách, thẩm quyền để bảo đảm hành lang pháp lý cần thiết cho lực lượng Kiểm lâm tổ chức hoạt động bảo vệ rừng, đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn hành vi xâm hại rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng hiệu quả hơn.

            Thứ chín:

Đổi mới chính sách lâm nghiệp; không quy định giao rừng có thu tiền sử dụng rừng mà thay thế cách thức cho thuê rừng. Nhà nước cho các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, các nhân thuê rừng sản xuất; đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ chỉ áp dụng cách thức cho thuê môi trường rừng và thuộc quyền của Chủ rừng; Nhà nước bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và các hoạt động phục vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp; Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp  của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp. Luật đã mở rộng hơn quyền hưởng lợi của chủ rừng đối với rừng tự nhiên phục hồi, rừng nghèo. Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái sinh nên việc quy định rõ các cách thức sở hữu rừng nhằm thừa nhận thành quả lao động, kết quả đầu tư của người làm nghề rừng; tạo động lực khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào rừng nghèo và hưởng lợi từ rừng; bảo đảm quản lý rừng tốt hơn, hiệu quả hơn.

            Thứ mười:

Luật quy định hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp. Quy định rõ những hoạt động khoa học và công nghệ, chính sách khoa học và công nghệ về lâm nghiệp. Quy định rõ thực hiện hợp tác quốc tế về lâm nghiệp với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế; chính sách hợp tác quốc tế về lâm nghiệp.

Vì vậy, trong nội dung trình bày này, LVN Group đã gửi tới tới quý bạn đọc những thông tin cần thiết liên quan đến Điểm mới của Luật Lâm nghiệp 2017 so với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004. Nếu còn bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến nội dung nội dung trình bày hoặc các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ ngay với LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời !!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com