Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005

Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005

Sự ra đời của Luật Thương mại 2005 đã khẳng định được sự đổi mới trong hệ thống chính sách pháp luật, phù hợp hơn với xu hướng phát triển không ngừng của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, sau một thời gian dài áp dụng thì đã nhận thấy có những bất cập, hạn chế nhất định. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày: Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005.

Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005

1. Khái quát chung về Luật thương mại 2005

Luật Thương mại năm 2005 ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), do vậy, cùng với các luật khác, Luật thương mại có vai trò lịch sử đưa Việt Nam gia nhập vào WTO. Sau gần 12 năm thi hành luật đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian hiện nay, khi hệ thống pháp luật về kinh tế có nhiều thay đổi, nhiều luật mới được ban hành, sửa đổi cho phù hợp Hiến pháp như Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật dân sự…thì việc thi hành Luật Thương mại năm 2005 không thể không tránh khỏi những bất cập, vướng mắc cần nghiên cứu hoàn thiện, đặc biệt là các quy định của Luật Thương mại 2005 điều chỉnh quan hệ giữa các thương nhân. Việc điều chỉnh quan hệ giữa các thương nhân nhằm duy trì và bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng luôn được quan tâm. Khi một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật thì các bên tham gia bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng.

2. Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005

Thứ nhất, về sự đan xen, chồng chéo giữa quy định của Luật Thương mại 2005 với các luật khác như Bộ luật dân sự, Luật Quảng cáo năm 2012, Luật Đầu tư sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 1/7/2015), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010… Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại mà Luật Thương mại năm 2005 quy định đã tiếp tục được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và quy định lại trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 như: nguyên tắc tự do, nguyên tắc tự nguyện cam kết thỏa thuận; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng. Còn các nguyên tắc như: nguyên tắc áp dụng thói quen; nguyên tắc áp dụng tập cửa hàng; nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại (Điều 12, Điều 13 và Điều 15 Luật Thương mại năm 2005), theo chúng tôi, về bản chất, các nội dung quy định đó không phải là nguyên tắc. Các qui định về phạt vi phạm và bồi thường tổn hại tại Luật Thương mại và Luật Dân sự không thống nhất có thể dẫn đến tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa Luật Thương mại 2005 với Luật Quảng cáo năm 2012 như có nhiều quy định về một vấn đề nhưng không thống nhất với nhau, khi áp dụng, các đối tượng thường sẽ sử dụng Luật Quảng cáo mà không phải áp dụng Luật Thương mại.

Tương tự, Luật Đầu tư sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 1/7/2015) ban hành các danh mục: Các ngành, nghề cấm kinh doanh, các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Luật đã thống nhất được các ngành, nghề cấm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong các quy định hiện hành, tạo tính minh bạch trong môi trường kinh doanh và kiểm soát được việc ban hành các điều kiện kinh doanh của các đơn vị quản lý Nhà nước. Trong khi Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định về các danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và hàng hóa dịch vụ kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, Luật Đầu tư sửa đổi đang quy định về điều kiện của các chủ thể kinh doanh, còn Luật Thương mại đang quy định về điều kiện của các loại hàng hóa mà các chủ thể kinh doanh, về cách thức thì đây là 2 nhóm danh mục khác nhau, một áp dụng cho chủ thể, một áp dụng cho sản phẩm, tuy nhiên, trên thực tiễn 2 nhóm danh mục này có rất nhiều điểm trùng lắp dễ gây ra xung đột pháp luật…

Do vậy, trong giai đoạn hiện nay khi các luật chuyên ngành đã đẩy đủ, chi tiết thì việc coi Luật Thương mại là luật gốc áp dụng chung cho các hoạt động thương mại đã dần lỗi thời, không còn vai trò chính để điều chỉnh các vấn đề về kinh doanh, thương mại. Thay vào đó, nên hoàn thiện theo hướng luật chuyên ngành, chỉ quy định các hoạt động thương mại đặc thù như làm rõ các khái niệm về thương nhân, nhượng quyền thương mại, quyền thương mại; qui định về các loại hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa cũng cần sửa đổi để phù hợp thông lệ quốc tế; Quy định về quyền hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài vì hiện không có qui định cụ thể nào về điều kiện, lộ trình và phạm vi tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch ở nước ngoài, điều này tạo khoảng trống pháp lý ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân; Quy định về hoạt động xúc tiến thương mại tới vùng sâu, vùng xa trong cả nước, hiện Luật Thương mại có một số điều không còn phù hợp xúc tiến thương mại, nên đề xuất hoàn thiện hơn về xúc tiến thương mại; Quy định về hoạt động Logistic… Tuy nhiên, việc hoàn thiện các quy định chuyên ngành về thương mại cần bảo đảm phù hợp thực tiễn đồng thời bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành.

Thứ hai, về cách thức hình phạt phạt vi phạm hợp đồng theo Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”.

Theo quy định của pháp luật hiện hành có hai văn bản pháp luật có giá trị điều chỉnh quan hệ về hình phạt phạt vi phạm là Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005, theo đó Khoản 2 Điều 422 của Bộ luật Dân sự năm 2005 về mức phạt vi phạm được áp dụng cho các quan hệ dân sự thì mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận, điều này được hiểu là các bên có quyền tự do lựa chọn mức phạt vi phạm mà không hề bị khống chế bởi quy định của pháp luật. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận theo quy định của pháp luật dân sự, tuy nhiên đó chỉ là những quan hệ mang tính chất dân sự theo nghĩa hẹp, còn đối với những quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, cụ thể là các quan hệ được Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh thì mức phạt vi phạm bị hạn chế ở mức 8%.

Do vậy, cần phân biệt được những quan hệ nào thuộc phạm vi điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự năm 2005, những quan hệ nào thuộc phạm vi điều chỉnh bởi Luật Thương mại năm 2005 để có thể áp dụng một cách chính xác. Về bản chất, mục đích của hình phạt phạt vi phạm hợp đồng là để răn đe và phòng ngừa các bên thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc các bên thỏa thuận một mức phạt thế nào nhằm đạt được mục đích như trên ở một chừng mực nhất định là hợp lý. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 2005 còn quy định về mức trần phạt vi phạm là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, quy định này nhằm bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng, đặc biệt là bên bị vi phạm và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ sự ổn định của nền kinh tế trước những hành vi vi phạm hợp đồng. Thông qua quy định về mức trần trong phạt vi phạm, nhà nước sẽ kiểm soát được các thỏa thuận phạt “trá hình” nhằm thu lợi bất chính từ phía các chủ thể trực tiếp ký kết hợp đồng.

Từ những bất cập trên, trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện, cần nghiên cứu sửa theo hướng lược bỏ quy định về mức trần phạt vi phạm hợp đồng như hiện nay vì quy định này làm hạn chế quyền tự do định đoạt, tự do thỏa thuận của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Mặt khác, việc không quy định mức trần phạt vi phạm hợp đồng cũng phù hợp với cách quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng của các thương nhân cũng như đảm bảo sự tự do thỏa thuận của họ trong hoạt động thương mại.

Thứ ba, về cách thức hình phạt tạm ngừng thực hiện hợp đồng, theo Điều 308 Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng”.

Có hai căn cứ để áp dụng hình phạt tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đó là: Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng và một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hình phạt tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng, hậu quả pháp lý đối với hợp đồng này là hợp đồng vẫn còn hiệu lực và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại nếu hành vi vi phạm đó gây tổn hại cho bên bị vi phạm. Vì vậy về bản chất, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điều kiện áp dụng hình phạt tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Sau khi áp dụng biện pháp này, sẽ phát sinh những vấn đề đặt ra như:

– Thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng?

– Dựa vào căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện?

– Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm hợp đồng?

Tất cả những vấn đề này đến nay chưa được Luật Thương mại điều chỉnh, do vậy gây không ít khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện cần bổ sung quy định cụ thể về căn cứ, thời gian chấm dứt áp dụng cách thức tạm ngừng thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên khi căn cứ tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng.

Thứ tư, về cách thức huỷ bỏ hợp đồng theo hướng dẫn tại Điều 312 Luật Thương mại năm 2005 quy định hủy bỏ hợp đồng là:

“1. Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng.

2. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.

3. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

4. Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, hình phạt hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:

a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng;

b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”

Theo đó việc hủy bỏ hợp đồng được hiểu việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng (có thể hiểu là hủy bỏ toàn bộ) hoặc bãi bỏ một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực (hủy bỏ một phần). Kết quả của việc hủy bỏ hợp đồng là hợp đồng không có hiệu lực từ thời gian giao kết hủy bỏ hợp đồng, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.

Vì vậy về nguyên tắc, hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng giống như trong trường hợp hợp đồng bị vô hiệu, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, quy định này mâu thuẫn với khoản 1 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 quy định: hợp đồng bị hủy bỏ thì không có hiệu lực từ thời gian giao kết, điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể cũng như các đơn vị giải quyết tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp. Do vậy, cần nghiên cứu hoàn thiện nội dung này trong dự thảo Luật Thương mại sửa đổi tránh đặt ra các quy định  mâu thuẫn, chồng chéo.

Thứ năm, về mối quan hệ giữa các loại hình phạt trong thương mại, Điều 307 Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác; Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả hình phạt phạt vi phạm và buộc bồi thường tổn hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.

Với quy định này, hình phạt phạt vi phạm có thể áp dụng đồng thời với hình phạt buộc bồi thường tổn hại, hay nói cách khác, việc áp dụng hình phạt phạt vi phạm không làm mất quyền áp dụng hình phạt buộc bồi thường tổn hại của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, nội dung này đã được ghi nhận tại Điều 316 Luật Thương mại 2005, đó là: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường tổn hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các hình phạt khác”.

Vì vậy, theo hướng dẫn tại Điều 316 Luật Thương mại năm 2005, thì hình phạt buộc bồi thường tổn hại có thể áp dụng cùng một lúc với các hình phạt khác bao gồm hình phạt phạt vi phạm. Do đó, việc đặt ra một điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa hình phạt phạt vi phạm và bồi thường tổn hại như trong Điều 307 Luật Thương mại hiện hành là không cần thiết, nên loại bỏ quy định này.

Thứ sáu, về mối quan hệ giữa hình phạt hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng với các loại hình phạt khác. Trong những quy định về mối quan hệ giữa hình phạt tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng tại các Điều 309, Điều 311 và Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Điều 309. Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng

1. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

2. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại theo hướng dẫn của Luật này.

Điều 311. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng

1. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời gian một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.

2. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại theo hướng dẫn của Luật này.

Điều 314. Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng

1. Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời gian giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.

2. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.

3. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại theo hướng dẫn của Luật này.

Điều 316. Quyền yêu cầu bồi thường tổn hại khi đã áp dụng các hình phạt khác

Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường tổn hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các hình phạt khác.”

Mặc dù quy định đề cập đến việc áp dụng ba loại hình phạt trên nhưng không làm mất quyền áp dụng hình phạt buộc bồi thường tổn hại. Theo chúng tôi thì quy định như vậy là chưa hợp lý vì những nội dung này đã được quy định tại Điều 316 Luật Thương mại 2005, nếu quy định như vậy thì không bao hàm việc áp dụng ba loại hình phạt này với hình phạt phạt vi phạm, trong khi nếu có đủ căn cứ áp dụng thì việc áp dụng ba loại hình phạt này với hình phạt phạt là hoàn toàn hợp pháp và chính xác. Do vậy, để tránh tình trạng quy định chồng chéo và không bao hàm hết các mối quan hệ giữa các hình phạt, thì cần thiết phải loại bỏ hết các quy định về mối quan hệ của các loại hình phạt nằm rải rác trong các điều luật khác nhau và sau đó thiết kế một mục quy định chung về mối quan hệ của các loại hình phạt trong thương mại.

Thứ bảy, về hình phạt buộc thực hiện đúng hợp đồng theo hướng dẫn tại Điều 297 Luật Thương mại năm 2005, thì việc “buộc thực hiện đúng hợp đồng” là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Trong thực tiễn việc cách thức buộc thực hiện đúng hợp đồng không khả thi, khó có thể thực hiện, đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn.

Do vậy, để bảo đảm tính khả thi đối với quy định về “buộc thực hiện đúng hợp đồng”, cần nghiên cứu xây dựng khái niệm về cách thức hình phạt này theo hướng “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Nếu được như vậy, sẽ khắc phục được tình trạng quy định của Luật đặt ra nhưng thiếu tính khả thi, do không sát thực tiễn.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 299 Luật Thương mại năm 2005 quy định:  “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện hình phạt buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các hình phạt khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”. Quy định như vậy đã làm cho hình phạt buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vô giá trị,  bởi vì ngay cả trường hợp bên vi phạm không thực hiện hình phạt này thì cũng không chịu bất kì trách nhiệm bổ sung nào mà chỉ chịu các cách thức hình phạt như phạt hợp đồng, bồi thường tổn hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Quy định này đã tạo thành lỗ hổng để các bên tham gia lợi dụng nhằm trì hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.

3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện Luật Thương mại năm 2005

Thứ nhất, khắc phục sự chồng chéo giữa LTM với BLDS và các luật chuyên ngành:

Để khắc phục hạn chế này, các nhà làm luật cần nghiên cứu bỏ cách tiếp cận LTM là luật chung áp dụng cho các hoạt động thương mại. Thay vào đó, LTM sẽ là luật chuyên ngành và có vị trí tương tự như các luật chuyên ngành khác. Nói cách khác, LTM sẽ chỉ tập trung các quy định về các hoạt động thương mại mang tính đặc thù. Đối với những hoạt động không có tính thương mại, hoặc vừa có tính chất thương mại, vừa có tính chất dân sự, thiết nghĩ nên nghiên cứu loại bỏ khỏi LTM và chỉ quy định trong BLDS hay các luật chuyên ngành để đảm bảo tính thống nhất, tránh sự chồng chéo không cần thiết. Căn cứ, BLDS 2015 đã quy định rất chi tiết về các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động mua bán tài sản, cho thuê tài sản, gia công, hay các quy định về việc xử lý các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, nếu quy định không có gì khác biệt, LTM nên lược bỏ những quy định này.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật không phù hợp, chưa rõ ràng, đáp ứng kịp thời sự phát triển của hoạt động thương mại và đảm bảo sự tương thích của LTM với các văn bản pháp luật thương mại và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ ba, mở rộng, quy định rõ ràng hơn về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của LTM 2005. Theo quy định tại Điều 2 LTM 2005, đối tượng áp dụng của LTM 2005 bao gồm: thương nhân thực hiện hoạt động thương mại và tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Quy định này chưa bao quát được hết mối quan hệ giữa các chủ thể thực hiện hoạt động thương mại trên thực tiễn, bao gồm: cá nhân thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh với nhau; cá nhân thực hiện hoạt động thương mại với thương nhân; thương nhân/cá nhân thực hiện hoạt động thương mại với người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, quy định “tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại” không rõ ràng và cũng không có quy định hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, LTM cần bổ sung thêm đối tượng áp dụng và quy định rõ hơn về những tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến thương mại. Việc mở rộng đối tượng áp dụng không chỉ phù hợp với thực tiễn mà còn để phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan như Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

Thứ tư, sửa đổi lại khái niệm về thương nhân. Theo Khoản 1 Điều 6 LTM 2005: “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Với quy định này, một trong những dấu hiệu nhận diện chủ thể kinh doanh là thương nhân đó là: cá nhân hoạt động thương mại một cách thường xuyên. Quy định này không còn phù hợp với thực tiễn khi có những cá nhân hoạt động ở khu vực “phi chính thức” cũng nhằm mục đích sinh lợi nhưng hoạt động không thường xuyên như buôn bán ô tô, bảo hiểm, bất động sản…

Bên cạnh đó, việc yêu cầu thương nhân phải có đăng ký kinh doanh cũng không phù hợp với quy định pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam là một trong số ít quốc gia còn nhận diện thương nhân theo phương thức quản lý nhà nước đối với chủ thể này, thay vì chỉ nhận diện dựa trên bản chất thương mại của thương nhân. Quy định này đã tạo ra sự phân biệt đối xử không cần thiết giữa các chủ thể được gọi là thương nhân với các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên nhưng không đăng ký kinh doanh.

Trên đây là các nội dung trả lời của chúng tôi về Những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định Luật Thương mại 2005. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như các bạn cần Công ty Luật LVN Group hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com