Quy định về thay đổi đề nghị giao kết hợp đồng [2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy định về thay đổi đề nghị giao kết hợp đồng [2023]

Quy định về thay đổi đề nghị giao kết hợp đồng [2023]

Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị. Sau đây, là Quy định về thay đổi đề nghị giao kết hợp đồng [2023]

1. Khái niệm về đề nghị giao kết hợp đồng

Hợp đồng là sự thỏa thuận làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự giữa trái chủ và thụ trái và có hiệu lực thi hành. Muốn tạo lập được một hợp đồng, ít nhất phải có hai người mà ý chí của họ phải gặp gỡ nhau hoặc họ phải cùng nhau ưng thuận về một đối tượng cụ thể.

Một hợp đồng dân sự được giao kết phải trải qua những trình tự nhất định, gọi là trình tự giao kết hợp đồng. Quá trình giao kết hợp đồng trải qua hai giai đoạn: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng.

Theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị). Vì vậy, theo hướng dẫn này thì đối tượng được mở rộng thành “bên đã được xác định hoặc tới công chúng”. Quy định đã loại bỏ từ “cụ thể”, nghĩa là chỉ cần gửi đến bên được xác định, đồng thời mở thêm chủ thể là “công chúng”, khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng mang tính bao quát và phù hợp hơn với thực tiễn áp dụng.

Đề nghị giao kết hợp đồng

2. Các cách thức của giao kết hợp đồng

Bộ luật dân sự năm 2015 không còn quy định về cách thức hợp đồng tại một điều khoản riêng mà được thể hiện trong Điều 119 về cách thức giao dịch dân sự như sau:

“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

     Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới cách thức thông điệp dữ liệu theo hướng dẫn của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

     2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo hướng dẫn đó.”

Hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, nhưng không có quy định cụ thể về cách thức của đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện với nhiều cách thức khác nhau và có thể thể hiện dưới bất kì cách thức nào. Bên đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với bên được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện, thông qua phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà bên giao kết hợp đồng không có mặt tại cùng một địa điểm để kí kết hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể…) để biểu lộ ý chí của mình muốn tham gia giao kết với chủ thể nhất định một hợp đồng.

3. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng

Điều 388 Bộ luật dân sự quy định về thời gian đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực như sau:

“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:

     a) Do bên đề nghị ấn định;

     b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

     2. Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:

     a) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;

     b) Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;

     c) Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.”

Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực căn cứ vào thời gian do hai bên ấn định. Nếu không có người ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực từ lúc bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.

Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực đóng vai trò rất cần thiết vì chỉ ra thời gian chính xác mà bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị, do vậy, sẽ ràng buộc bên đưa ra đề nghị hợp đồng. Việc rút lại một đề nghị có thể thực hiện trước khi đề nghị này có hiệu lực, trong khi việc xem xét một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ được không lại chỉ đặt ra sau thời gian này.

4. Rút lại, hủy bỏ và thay đổi đề nghị giao kết hợp đồng

Điều 389 Bộ luật dân sự quy định về trường hợp bên đề nghị thay đổi, rút lại đề nghị của mình như sau:

     “1. Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp sau đây:

     a) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời gian nhận được đề nghị;

     b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.

     2. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới.”

Vì vậy, bên đề nghị có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp họ đảm bảo được sự gặp gỡ ý chí của cả 2 bên. Cần phân biệt rõ “rút lại” và “hủy bỏ” một đề nghị: có thể rút lại một đề nghị trước khi đề nghị này có hiệu lực. Trong khi đó, việc xem xét một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ được không lại chỉ đặt ra sau thời gian này.

     “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” (Điều 390 Bộ luật dân sự).

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com