Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Việc nam nữ chung sống như vợ chồng không được công nhận là vợ chồng hợp pháp và giữa hai bên không có nghĩa vụ pháp lý với nhau. Vậy việc nam nữ sống chung như vợ chồng để lại hậu quả gì và giải quyết hậu quả đó thế nào? Hãy theo dõi nội dung Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 mà LVN Group sẽ trình bày dưới đây để trả lời cho câu hỏi trên !.

1. Trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng

Nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn là thực trạng đã và đang tồn tại trong xã hội như một sự kiện khách quan và có xu hướng ngày càng phổ biến. Theo quy định Khoản 7 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
Dưới góc độ pháp lý, việc nam nữ chung sống như vợ chồng là trường hợp nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo hướng dẫn pháp luật chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Pháp luật không công nhận trường hợp này là vợ chồng.
Tuy nhiên trên thực tiễn, các bên nam nam, nữ vẫn chung sống và coi nhau như vợ chồng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau, với gia đình và xã hội. Xét về bản chất, đây là quan hệ vợ chồng nhưng quan hệ này không được xác lập theo trình tự, thủ tục pháp lý theo hướng dẫn của pháp luật nên không được Nhà nước công nhận là quan hệ hôn nhân.
Quyền và nghĩa vụ giữa các bên nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng được giải quyết theo hướng dẫn tại Điều 15 và 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, theo đó:
– Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con được giải quyết như quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ đã đăng ký kết hôn.
– Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa hai bên nam, nữ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan trên cơ sở bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

2.  Một số hậu quả pháp lý của quan hệ sống chung như vợ chồng?

1. Đối với hai bên chung sống như vợ chồng:
Nếu như giữa hai bên tham gia vào quan hệ chung sống như vợ chồng luôn yêu thương và có một cuộc sống hạnh phúc thì có lẽ mối quan hệ này sẽ mang lại cho cả hai bên sự lạc quan, niềm vui, có thể là điều kiện để lựa chọn được người vợ chồng tốt nhất cho tương lai; không có sự ràng buộc có thể chấm dứt mối quan hệ bnayf bất kỳ lúc nào mình muốn. Tuy nhiên, nhìn chung việc sống như vợ chồng sẽ đem lại nhiêu hậu quả xấu hơn những hệ quả tích cực trên:
+ Mang lại hậu quả, nỗi đau về thể chất cho cả hai bên đặc biệt là phụ nữ: khi không có những biện pháp pháp lý bảo đảm thì khi sống chung mà người phụ nữa có thai thì sẽ không đơn giản như việc những vợ chồng lấy nhau nhằm xây dựng hôn nhân hạnh phúc, hợp pháp , lúc này rất nhiều người đi phá thai ( Việt Nam là một trong năm quốc gia có tỷ lệ phá thai nhiều nhất thế giới, cao nhất Đông Nam Á). Rồi thì ngoài những cặp nam nữ thì ở những cặp đồng giới cũng sẽ sảy ra bạo lực ra đình mà pháp luật không có biện pháp bảo đảm.
+ Chung sống như vợ chồng để lại nỗi đau về tinh thần cho hai bê: sau khi sống chung và chia tay họ sẽ mất niềm tin vào tình yêu, cuộc sống hôn nhân, làm mất đi danh dự, nhân phẩm của bản thân và gia đình ( Chẳng hạn: những cô gái độc thân sống như vợ chồng với người đang có vợ khi bị phát hiện sẽ làm mất giá trị của bản thân cô gái, mất danh dự của bố mẹ- người không muốn con gái mình như vậy..)
2. Đối với con cái:
Có những đứa trẻ sống trong gia đình tuy bố mẹ không đăng ký kết hôn nhưng yêu thương nhau thì vẫn sẽ được sống như những đứa trẻ có cha mẹ đăng ký kết hôn khác. Tuy nhiên, những đứa con có cha mẹ không có thủ tục hôn thú sẽ là người chịu nhiều tổn thương nhất; nó sẽ luôn phải đứng trước nguy cơ mất bố hoặc mẹ lúc nào đó một cách dễ dàng vì không có sự ràng buộc của pháp luật. Một số đứa trẻ chịu sự xa lánh, true trọc của bạn bè. Khi bố mẹ chúng chia tay những đứa trẻ đó sẽ không được sống một cuộc sống tốt nhất; có thể mất đi nhiều quyền lợi vì có rất nhiều trường hợp thực tiễn những đứa trẻ không được quan tâm, không có quyền lợi như pháp luật đã nói “con của người chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn có quyền lợi như con của những vợ chồng đăng ký kết hôn”
3. Đối với bên thứ ba có mối quan hệ với họ:
Việc sống chung như vợ chồng khiến cho người thứ ba nhầm tưởng họ là vợ chồng hợp pháp và trong việc vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau trong một số các quan hệ mà BLDS và Luật HN&GĐ quy định. Trong khi đó, rõ ràng cả hai bên chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không pháp sinh quan hệ uỷ quyền tương đương như vợ, chồng.
Với việc sống chung như vợ chồng với người đã có vợ, chồng hoặc cả hai bên cùng có gia đình sẽ làm mất đi quyền lợi của người vợ, chồng hiện tại.
4. Đối với nhà nước và xã hội:
+ Không phù hợp với truyền thống đạo đức, phong tục tập cửa hàng của nước ta thiên về gia đình và lối sống một vợ một chồng.
+ Làm cho xã hội có một cái nhìn tiêu cực hơn về cộng đồng; làm người ta mất dần niềm tin vào các môi quan hệ xã hội (quan hệ gia đình giữa cha, mẹ, con)- đây đều là những mối quan hệ thiêng liêng, gắn bó sâu sắc máu thịt nhất trong cuộc đời mỗi con người.
+ Ảnh hưởng đến ý thức chấp hành chung của toàn xã hội
+ Khi không có chế định bảo đảm nhiều về quyên và lợi ích liên quan sẽ dẫn đến nhiều sự kiện xã hội, những đứa trẻ sinh ra không được chăm sóc tận tình trong vòng tay yêu thương của gia đình sẽ không được phát triển tốt nhất, nhiều tệ nạn như: ma túy,mại dâm, phá thai …gây mất ổn định xã hội.Với quan hệ nhân thân
Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“ Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo hướng dẫn của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”.
Tức là sẽ không tồn tại quan hệ nhân thân, không được pháp luật công nhận nên không được pháp luật bảo vệ quyền và nghĩa vụ như vợ chồng ( có thể dưới góc độ của hợp đồng dân sự). Chính vì không có cơ chế bảo vệ mối quan hệ này nên quyền lợi của các bên dễ dàng bị xâm phạm.
5. Đối với quan hệ tài sản:
Điều 16 Luật HNGĐ 2014 quy định:
“ Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên, trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan…”.
Vì vậy, nhà làm luật ưu tiên quan hệ tài sản trong trường hợp này. Bởi, như đã nhận định, đây trước hết là quan hệ dân sự và vì vậy cần tôn trọng.
Quy định của pháp luật đã đồng thời đảm bảo được sự tôn trọng và thỏa thuận giữa các bên lồng ghép bình đẳng giới. Pháp luật thiên về bảo vệ phụ nữ và trẻ em nên sẽ có những quy định chia tài sản sẽ thiên về người phụ nữ.
6. Với quan hệ cha, mẹ với con:
Với chủ trương không làm ảnh hưởng đến việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ giữa cha, mẹ, con nên hững người chung sống với nhau như vợ chồng mà có con thì các quyền, nghĩa vụ như với vợ chồng nhằm đảm bảo quyền, lợi, sự phát triển bình thường của đứa con tùy vào tuổi đứa trẻ, hoàn cảnh của bố mẹ.
Vì vậy, nhà nước ta cần có những giải pháp xử lý thực trạng sống chung như vợ chồng bằng các biện pháp phù hợp. Với pháp luật thì hạn chế tạo lỗ hổng để thực trạng này suy giảm nhằm ổn đình xã hội.

Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

3. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng – Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo hướng dẫn của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo hướng dẫn tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo hướng dẫn của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời gian đăng ký kết hôn.
Trên đây là một số thông tin chi tiết về Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hy vọng với những thông tin LVN Group đã gửi tới sẽ giúp bạn hiểu thêm về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ tư vấn hỗ trợ pháp lý hoặc sử dụng các dịch vụ pháp lý khác từ Công ty Luật LVN Group, hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng. LVN Group cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình gửi tới đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.
Gmail: info@lvngroup.vn
Website: lvngroup.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com