Những bất cập của Luật xây dựng năm 2014 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Những bất cập của Luật xây dựng năm 2014

Những bất cập của Luật xây dựng năm 2014

Luật xây dựng năm 2014 số 50/2014/QH13 hiện đang là Luật xây dựng mới nhất 2023 quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của đơn vị, tổ chức, cá nhân và quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng.Sau đây là nội dung trình bày Những bất cập của Luật xây dựng năm 2014. Mời các bạn cùng đọc nội dung trình bày sau đây để biết thêm thông tin !. 

I. Điểm nổi bật của Luật xây dựng 2014

1. Về thẩm quyền quyết định đầu tư xây dựng công trình.

Theo quy định hiện hành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp quyết định đầu tư các dự án nhóm A, B, C trong phạm vi và khả năng cân đối ngân sách của địa phương sau khi thông qua Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trong khi đó, theo hướng dẫn của Luật Xây dựng 2014 thì thẩm quyền quyết định đầu tư xây dựng công trình được thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật về đầu tư công.

2. Về thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình

heo quy định hiện hành thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối tổ chức thẩm định dự án. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã tổ chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư, đầu mối thẩm định dự án là đơn vị có chức năng quản lý kế hoạch ngân sách trực thuộc người quyết định đầu tư.

Theo Luật Xây dựng năm 2014 đối với dự án sử dụng vốn ngân sách thì đơn vị chuyên môn về xây dựng theo phân cấp ( là các Sở Xây dựng, Giao thông Vận tải, Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Công thương và Phòng có chức năng quản lý xây dựng thuộc UBND cấp huyện) có trách nhiệm chủ trì tổ chức thẩm định nội dung dự án.

3. Về thẩm quyền phê duyệt  thiết kế và dự toán xây dựng

Theo quy định hiện hành thì Người quyết định đầu tư phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình cùng với thiết kế cơ sở. Các bước thiết kế tiếp theo sau thiết kế cơ sở  sẽ do chủ đầu tư tổ chức thẩm định và phê duyệt cùng với dự toán.

Tuy nhiên, theo Luật Xây dựng 2014 thì Người quyết định đầu tư phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán xây dựng trong trường hợp thiết kế ba bước; phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công, dự toán xây dựng trong trường hợp thiết kế hai bước trên cơ sở kết quả thẩm định của đơn vị chuyên môn về xây dựng. Chủ đầu tư phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công trong trường hợp thiết kế ba bước.

4. Về Chủ đầu tư , Ban quản lý dự án và cách thức quản lý dự án

– Chủ đầu tư theo hướng dẫn hiện hành đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước do Chủ tịch UBND các cấp quyết định đầu tư thì  chủ đầu tư là đơn vị quản lý, sử dụng công trình. Ngược lại, theo Luật Xây dựng 2014 thì chủ đầu tư là đơn vị, tổ chức được Người quyết định đầu tư giao quản lý, sử dụng vốn để đầu tư xây dựng.

– Trước đây, Ban quản lý dự án do chủ đầu tư thành lập để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý dự án trong trường hợp chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án. Theo Luật Xây dựng 2014 thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu đư xây dựng khu vực để quản lý một số dự án thuộc cùng một chuyên ngành hoặc cùng trên một địa bàn. Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực được giao làm chủ đầu tư một số dự án và thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý dự án.

– Theo quy định hiện hành thì có hai cách thức quản lý dự là chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án hoặc thuê tư vấn quản lý dự án, Luật Xây dựng 2014 quy định dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu đư xây dựng khu vực trực tiếp quản lý dự án; Thuê tư vấn quản lý dự án chỉ áp dụng đối với dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách, vốn khác và dự án có tính chất đặc thù, đơn lẻ.

5. Về năng lực hoạt động xây dựng

Luật Xây dựng 2014 đã bổ sung thêm các chức danh sau đây khi hoạt động xây dựng phải có chứng chỉ hành nghề theo hướng dẫn gồm: an toàn lao động, giám đốc quản lý dự án, cá nhân trực tiếp tham gia quản lý dự án, kiểm định xây dựng và chỉ huy trưởng công trường.

Mặt khác, cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng ngoài việc phải đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm như quy định trước đây còn phải qua sát hạch kiểm tra kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức pháp luật liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp.

II.Những bất cập của Luật xây dựng năm 2014

1.Các giai đoạn đầu tư nên theo luật chuyên ngành

Không thể phủ nhận Luật Xây dựng 2014 đã góp phần cần thiết trong việc phát triển kinh tế – xã hội nói chung và thị trường bất động sản nói riêng; nâng cao chất lượng phát triển đô thị và các công trình xây dựng, nhà ở. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm thực thi, luật đã bộc lộ những khiếm khuyết, không còn phù hợp nên cần thiết phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung. Căn cứ như, Luật Xây dựng chỉ nên là luật chuyên ngành về lĩnh vực xây dựng, không nên có nội dung như Chương II với 36 điều (từ Điều 13 đến Điều 48) quy định về “quy hoạch xây dựng” mà nên đưa nội dung ấy vào Luật Quy hoạch đô thị. 

Mặt khác, cần tích hợp quy trình cấp giấy phép xây dựng với quy trình thẩm định và thiết kế xây dựng (phân cấp, phân quyền cho các Sở Xây dựng). Thực tế, Sở Xây dựng TP.HCM đã làm khá tốt (tích hợp quy trình thẩm định thiết kế và cấp phép giấy phép xây dựng), rút ngắn được thời gian cấp giấy phép từ 122 ngày xuống chỉ còn 42 ngày. Về lâu dài nên xã hội hóa công tác thẩm định thiết kế cơ sở. Có như vậy, mới nâng cao được vai trò, hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng. Bộ Xây dựng chỉ nên thẩm định thiết kế cơ sở đối với các công trình đặc biệt, có ảnh hưởng lớn về mặt an toàn hoặc lợi ích cộng đồng. 

Một vấn đề khá bất cập, cần được xem xét điều chỉnh là nên mở rộng đối tượng được miễn cấp giấy phép xây dựng như đối với các công trình đã được Bộ Xây dựng thẩm định thiết kế cơ sở và chủ đầu tư đã thẩm định thiết kế kỹ thuật. Tương tự như vậy đối với các dự án nhà ở đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 (hoặc bản vẽ tổng thể mặt bằng); các công trình nhà ở đơn lẻ (nhà liên kết, biệt thự) trong dự án; các công trình nhà ở đơn lẻ của cá nhân, hộ gia đình trong đô thị… đã được đơn vị có thẩm quyền phê duyệt. Một số nội dung khác quy định trong Luật Xây dựng liên quan đến những trường hợp được cấp giấy phép xây dựng theo giai đoạn; thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở cũng cần được xem xét lại.

Về điều kiện khởi công xây dựng công trình nhà ở thương mại, đối chiếu với quy định hiện hành, các chủ đầu tư phải mất thời gian ba năm cho các khâu nhận chuyển nhượng đất, giải phóng mặt bằng; hai năm tiếp theo hoàn thiện các khâu lập thủ tục chuẩn bị đầu tư; ba năm sau đó mới đến các công đoạn triển khai dự án, xây dựng công trình… Đây quả là một chặng đường nhọc nhằn, tốn kém làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để giải tỏa những khó khăn trên, Nhà nước cần có cơ chế vận dụng luật chuyên ngành và hệ thống quy định pháp luật có liên quan, bởi các luật ban hành nhằm mục đích điều chỉnh từng hành vi trong từng lĩnh vực kinh tế – xã hội. Vì vậy, Quốc hội cần phải đặt ra ranh giới, phạm vi điều chỉnh của mỗi luật thật phân minh như: trong giai đoạn thực hiện thủ tục đầu tư thì áp dụng pháp luật về đầu tư; liên quan đến thủ tục lựa chọn chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại thì áp dụng pháp luật nhà ở; liên quan đến thủ tục đất đai thì áp dụng pháp luật đất đai; liên quan đến hoạt động xây dựng thì áp dụng pháp luật xây dựng. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành sẽ giải quyết được nhiều vướng mắc, tránh tình trạng chồng chéo luật, tránh được sự kiện các đơn vị thực thi đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. 

2.Quy hoạch vùng thiếu điều phối chung

Riêng đối với vấn đề quy hoạch vùng trong xây dựng, mặt tích cực là thể hiện tầm nhìn quốc gia trong trung hạn và dài hạn, thể hiện ý chí của Nhà nước về các định hướng phát triển. Quy hoạch vùng chính là lợi ích của Nhà nước, uỷ quyền cho lợi ích công cộng, đồng thời là công cụ hiệu quả để điều chỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội khác theo nguyên tắc định hướng cho sự phát triển chung trên cơ sở tuân thủ quy hoạch. Chính vì vậy, quy hoạch vùng phải phù hợp với mục tiêu kinh tế – xã hội, với lợi ích công cộng có tính đến hiệu quả đầu tư và tính khả thi. 

Tuy nhiên, hạn chế của quy hoạch vùng là không có đơn vị điều phối cấp vùng, dẫn đến hiệu quả không cao, chưa tạo được sự liên kết, phối hợp vùng giữa các tỉnh, thành phố liên quan. Ví dụ, quy hoạch vùng giữa TP.HCM với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có sự chồng lấn, trùng lắp; việc bãi bỏ quy hoạch tuyến đường sắt trên cao vận chuyển hàng hóa nối ga Sóng Thần – cảng Cát Lái (có thể nối cảng với cảng Hiệp Phước, cảng Cái Mép – Thị Vải) sẽ làm gia tăng áp lực giao thông đường bộ cho khu vực phía Đông TP.HCM. Tương tự, việc bổ sung tuyến đường Rừng Sác trên cao cần thiết phải bổ sung thêm cầu vượt biển Cần Giờ – Vũng Tàu để kết nối tuyến đường ven biển đi miền Nam Trung Bộ thì mới phát huy hết hiệu quả đầu tư.

Về hệ thống quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2.000, tôi chỉ đơn cử một thực trạng đó là không gian sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Có thể khẳng định, đây là tài nguyên thiên nhiên ban tặng, là nguồn lực hỗ trợ sự phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời là cảnh quan môi trường thuộc lợi ích công cộng mà mọi người dân đều có quyền hưởng thụ. Việc quy hoạch và cho phép đầu tư xây dựng nhiều công trình cao tầng ven sông không chỉ tác động tiêu cực đến cảnh quan môi trường mà còn xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích cộng đồng. Hành lang ven sông chưa được tích hợp vào quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2.000 để thống nhất quản lý. Vì vậy, tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng cần có quy định chặt chẽ quy trình thực hiện việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng (kể cả quy hoạch vùng, quy hoạch chung xây dựng cấp tỉnh, quy hoạch phân khu tỷ lệ/2.000, quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500) trong thiết kế đô thị không lệ thuộc vào ranh giới hành chính giữa các địa phương để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa quy hoạch chung với lợi ích các bên liên quan. Phải đặt lợi ích chung, lợi ích cộng đồng và sự phát triển bền vững lên hàng đầu trong quy hoạch xây dựng. 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com