So sánh luật hôn nhân gia đình năm 2000 và năm 2014 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - So sánh luật hôn nhân gia đình năm 2000 và năm 2014

So sánh luật hôn nhân gia đình năm 2000 và năm 2014

Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật hôn nhân và Gia đình (Luật số 52/2014/QH13, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/1/2015 – sau đây gọi tắt là Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014). Trong phạm vi nội dung trình bày dưới đây, LVN Group sẽ gửi tới thông tin về những điểm mới, so sánh luật hôn nhân gia đình 2000 và 2014.

Để so sánh luật hôn nhân gia đình 2000 và 2014, cần xét qua một vài tiêu chí cơ bản như sau:

1. Về bố cục

 So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giảm bớt 2 chương, 08 điều (gồm: Chương IX “Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình” vì đã được quy định trong Bộ luật dân sự và Chương XII “Xử lý vi phạm” vì đã được quy định trong Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; Điều 7 “Áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài”; Điều 10 “ Những trường hợp cấm kết hôn”; Điều 12 “Thẩm quyền đăng ký kết hôn”; Điều 13 “Giải quyết việc đăng ký kết hôn”; Điều 14 “Tổ chức đăng ký kết hôn”; Điều 89 “Căn cứ cho ly hôn”; Điều 98 “Chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ, chồng”; Điều 106 “Giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài”).


So sánh luật hôn nhân gia đình 2000 và 2014

2. Về nội dung

– Thứ nhất, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã nâng độ tuổi kết hôn của nam và nữ, tức là được tính theo tuổi tròn, bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.

– Thứ hai, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính, bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhưng lại quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (tại khoản 2 Điều 8).

– Thứ ba, bổ sung quy định mới cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tức là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con (tại điều 95). Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện như: Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về:

Y tế, pháp lý, tâm lý. Người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

– Thứ tư, quy định chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận: việc thỏa thuận giữa vợ chồng phải được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.

– Thứ năm, bổ sung thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn. Tức là cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

– Thứ sáu, quy định việc áp dụng tập cửa hàng trong hôn nhân và gia đình. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể việc áp dụng tập cửa hàng trong hôn nhân gia đình, đó là: chỉ được áp dụng tập cửa hàng trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm

– Thứ bảy, bổ sung điểm mới là những quy định về giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, quy định rõ công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập.

– Thứ tám, về nghĩa vụ đối với con khi ly hôn: Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. (quy định cũ của Luật hiện hành là từ đủ 9 tuổi trở lên)

– Thứ chín, sửa đổi quy định “con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác” thành “con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Trên đây là một số thông tin chi tiết về so sánh luật hôn nhân gia đình 2000 và 2014. Hy vọng với những thông tin LVN Group đã gửi tới sẽ giúp bạn hiểu thêm về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ tư vấn hỗ trợ pháp lý hoặc sử dụng các dịch vụ pháp lý khác từCông ty Luật LVN Group, hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng. LVN Group cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình gửi tới đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

Gmail: info@lvngroup.vn

Website: lvngroup.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com