Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự

Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự

Quan hệ hôn nhân là một quan hệ dân sự đặc biệt nhưng lại khá phổ biến ở mỗi quốc gia. Trong quá trình chung sống, với mục đích muốn phát triển kinh tế gia đình; cũng như do nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế thị trường, nên vợ và chồng cùng tiến hành thực hiện; xác lập các quan hệ dân sự ngày càng nhiều. Vậy Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây!

Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự

1. Mất năng lực hành vi dân sự là gì?

Mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Theo đó, người mất năng lực hành vi dân sự là những người bị mắc các bệnh về tâm thần dẫn đến không thể nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Với tình trạng sức khỏe như vậy, họ không thể tham gia bất kỳ giao dịch dân sự nào. Vì thế, pháp luật quy định họ bắt buộc phải có người giám hộ để bảo vệ quyền và lợi ích của họ.

2. Giám hộ là gì?

Giám hộ là việc cá nhân; pháp nhân được luật quy định; được Ủy ban nhân dân cấp xã cử; được Tòa án chỉ định hoặc được quy định theo pháp luật (gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên; người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức; làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). (Theo khoản 1 Điều 43 BLDS năm 2015)

Điều kiện để một cá nhân được làm người giám hộ phải đảm bảo các yêu cấu tại Điều 49 BLDS năm 2015, đó là:

“Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:

1. Có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn.

2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền; nghĩa vụ của người giám hộ.

3. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng; sức khỏe; danh dự; nhân phẩm; tài sản của người khác.

4. Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.”

3. Đại diện giữa vợ và chồng là gì?

Căn cứ theo khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 thì:

Đại diện là việc cá nhân; pháp nhân (người uỷ quyền) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được uỷ quyền) xác lập; thực hiện giao dịch dân sự”

Từ quy định trên ta có thể suy ra uỷ quyền giữa vợ và chồng được hiểu là việc một bên vợ hoặc chồng nhân danh và vì lợi ích của người còn lại xác lập; thực hiện giao dịch theo hướng dẫn của luật hôn nhân và gia đình; Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

4. Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự

Theo quy định của pháp luật hiện hành, uỷ quyền giữa vợ và chồng phát sinh trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc theo ủy quyền giữa vợ và chồng. Khi thực hiện quyền uỷ quyền giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, thương mại sẽ làm phát sinh các hệ quả pháp lý về tài sản, các quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa các bên có liên quan. Trong quan hệ uỷ quyền giữa vợ và chồng, khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự không chỉ làm phát sinh nghĩa vụ về tài sản đối với người được uỷ quyền mà trong nhiều trường hợp còn làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ chung của cả hai vợ chồng, tức là của cả người uỷ quyền và người được uỷ quyền, tùy thuộc vào từng trường hợp.

4.1. Hệ quả pháp lý của các giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện trong trường hợp uỷ quyền theo pháp luật

Theo quy định tại Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật năm 2014), uỷ quyền theo pháp luật giữa vợ và chồng phát sinh khi một bên vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà người chồng hoặc vợ kia được Tòa án chỉ định làm người uỷ quyền theo pháp luật cho người đó. Theo quy định tại Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một người được Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì Tòa án sẽ “chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”. Điều này chưa được quy định trong Luật năm 2014. Trên cơ sở tính tương thích, đồng bộ giữa các quy định pháp luật, cần thấy rằng, vấn đề uỷ quyền giữa vợ và chồng theo hướng dẫn của pháp luật còn bao hàm cả trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Do đó, hệ quả pháp lý của các giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện trên cơ sở uỷ quyền theo pháp luật giữa vợ và chồng cần được phân tích, xem xét qua các trường hợp sau:

Thứ nhất, trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án ra quyết định là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, hoặc bị xác định là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người chồng hoặc vợ còn lại đủ điều kiện là người giám hộ, trừ trường hợp trước đó người này khi có đủ năng lực hành vi dân sự đã lựa chọn người giám hộ cho mình khi cần thiết theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong các trường hợp này, khi vợ hoặc chồng được xác định là người giám hộ của chồng hoặc vợ mình thì người đó có quyền, nghĩa vụ “uỷ quyền cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự”. Khi thực hiện quyền uỷ quyền cho người được giám hộ thì vợ hoặc chồng là người giám hộ có quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung hoặc tài sản riêng của chồng hoặc vợ được giám hộ trên cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

Khi vợ hoặc chồng là người giám hộ xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự với người thứ ba liên quan đến tài sản chung của vợ chồng thì về nguyên tắc, giao dịch đó sẽ có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng. Vấn đề đặt ra là, trong trường hợp người giám hộ thực hiện những giao dịch liên quan tới tài sản chung như cho vay với lãi suất cao nhưng người vay trốn tránh, không trả nợ, hoặc đầu tư kinh doanh bị thua lỗ, phá sản… thì những nghĩa vụ về tài sản phát sinh sẽ là nghĩa vụ riêng của người xác lập, thực hiện giao dịch hay là nghĩa vụ chung của vợ chồng? Trong những trường hợp này, việc tham gia, xác lập các giao dịch chỉ thể hiện ý chí của một bên vợ hoặc chồng vì người chồng hoặc vợ kia bị mất năng lực hành vi dân sự, không thể hiện ý chí được. Theo quy định của pháp luật, việc người uỷ quyền xác lập, thực hiện các giao dịch nhằm “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”, nhưng thế nào là “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ” không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định được. Bởi theo ý chí của người uỷ quyền, việc họ xác lập, thực hiện các giao dịch đó là vì lợi ích của gia đình, trong đó có lợi ích của người được giám hộ. Việc xảy ra các rủi ro, thất thoát về tài sản nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Mặt khác, cũng có không ít trường hợp, chồng hoặc vợ là người uỷ quyền lợi dụng quyền uỷ quyền của mình để tẩu tán tài sản chung nhằm những mục đích khác nhau, gây tổn hại cho tài sản chung. Do đó, trong những trường hợp này, người được giám hộ sẽ rất thiệt thòi về tài sản. Tuy nhiên, việc chứng minh mục đích xác lập, thực hiện các giao dịch của vợ hoặc chồng trên cơ sở uỷ quyền có vì lợi ích chung của gia đình được không là rất khó và thường chỉ đặt ra khi có hậu quả xấu xảy ra đối với khối tài sản chung.

Các giao dịch mà người vợ hoặc chồng uỷ quyền xác lập, thực hiện liên quan đến tài sản riêng của người được uỷ quyền vì lợi ích của người được uỷ quyền trong phạm vi được Tòa án xác định có hiệu lực pháp lý. Việc xác lập giao dịch liên quan đến tài sản riêng có giá trị lớn của người được giám hộ thì “phải có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ” thì mới có hiệu lực. Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền, lợi ích về tài sản của người được giám hộ được bảo vệ thông qua cơ chế giám sát việc giám hộ. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khi người vợ hoặc chồng là người uỷ quyền cho chồng hoặc vợ mình cố ý lợi dụng quyền uỷ quyền đó để thực hiện những hành vi định đoạt tài sản riêng của người được giám hộ hoặc tài sản chung của vợ chồng không vì lợi ích của người được giám hộ thì người giám sát việc giám hộ cũng khó phát hiện, ngăn chặn, do đó, không bảo vệ kịp thời lợi ích tài sản của người được giám hộ. Thực tế cho thấy, cơ chế giám sát việc giám hộ không có tính khả thi, hiệu quả vì việc giám hộ hay giám sát việc giám hộ thường được xác lập trước tiên trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng giữa các thành viên gia đình nên bị chi phối bởi yếu tố tình cảm, các bên chủ thể thường tự giác thực hiện mà ít bị chú ý, ít có sự “theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ” theo hướng dẫn của pháp luật[5]. Trong việc giám hộ giữa vợ và chồng, người giám sát việc giám hộ thường là cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; con đẻ; anh, chị, em ruột… của người được giám hộ. Để bảo vệ kịp thời lợi ích của người được giám hộ, người giám sát việc giám hộ cần có sự theo dõi sát sao, kiểm tra việc giám hộ của người giám hộ, nhằm đảm bảo các giao dịch mà người giám hộ xác lập, thực hiện là vì lợi ích của người được giám hộ.

Thứ hai, trường hợp vợ hoặc chồng được chỉ định là người uỷ quyền cho chồng hoặc vợ mình bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà người chồng hoặc vợ của họ được Tòa án chỉ định là người uỷ quyền theo pháp luật cho họ thì người này chỉ có quyền thể hiện ý chí về sự đồng ý được không đồng ý đối với các giao dịch mà người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Trong trường hợp này, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình nên họ có quyền tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với người khác, nhưng các giao dịch này chỉ có hiệu lực pháp lý nếu có sự đồng ý của người uỷ quyền theo pháp luật, trừ các giao dịch nhằm “phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày”. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích về tài sản riêng của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng như tài sản chung của vợ chồng, tránh việc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tẩu tán, định đoạt làm thất thoát tài sản. Khi người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện các giao dịch, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, mà không có sự đồng ý của người uỷ quyền thì người uỷ quyền có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, nếu người uỷ quyền mặc dù không đồng ý về việc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện giao dịch nhưng lại không có yêu cầu tuyên bố giao dịch đó vô hiệu thì giao dịch đó có đương nhiên bị coi là vô hiệu không?

Vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ vẫn có quyền thể hiện ý chí của mình trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của bản thân. Do đó, khi người uỷ quyền xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng thì phải có sự thể hiện ý chí của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nếu người vợ hoặc chồng uỷ quyền lợi dụng quyền uỷ quyền để xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung mà không có sự đồng ý của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì giao dịch đó có thể bị vô hiệu. Đây là điểm khác biệt so với trường hợp vợ hoặc chồng uỷ quyền cho nhau khi một bên bị mất năng lực hành vi dân sự.

4.2. Hệ quả pháp lý của các giao dịch do vợ, chồng thực hiện trong trường hợp uỷ quyền theo ủy quyền giữa vợ và chồng

Đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng xuất phát trên cơ sở ý chí tự nguyện, tỉnh táo, minh mẫn của vợ hoặc chồng là người ủy quyền. Trong thực tiễn, uỷ quyền theo ủy quyền giữa vợ và chồng phát sinh do nhu cầu của cuộc sống liên quan đến tài sản riêng của một bên hoặc tài sản chung của vợ chồng.

(i) Hệ quả pháp lý của các giao dịch thực hiện trên cơ sở uỷ quyền theo ủy quyền giữa vợ và chồng liên quan đến tài sản riêng

Trong trường hợp vợ, chồng ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản riêng của một bên thì quan hệ uỷ quyền đó về bản chất không có gì khác uỷ quyền giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ dân sự, được điều chỉnh bởi luật dân sự. Người vợ hoặc chồng được ủy quyền là người có quyền uỷ quyền cho chồng hoặc vợ mình để xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản riêng của người ủy quyền. Các giao dịch do người uỷ quyền xác lập, thực hiện trong phạm vi uỷ quyền sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được uỷ quyền. Ví dụ, người chồng có thể ủy quyền cho vợ sử dụng, định đoạt số tiền được thừa kế riêng của người chồng để thực hiện giao dịch mua nhà, qua đó làm phát sinh quyền sở hữu riêng của người chồng đối với ngôi nhà đó và nếu tiền thừa kế không đủ để mua nhà thì sẽ làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ của người chồng với số tiền còn thiếu. Trong trường hợp người vợ thực hiện giao dịch vượt quá số tiền được người chồng ủy quyền thì phải có sự đồng ý của người chồng; nếu người chồng không đồng ý thì người vợ phải chịu trách nhiệm với số tiền vượt quá phạm vi được ủy quyền.

Vợ hoặc chồng có thể là người uỷ quyền của người kia khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp kinh doanh mà tư cách uỷ quyền của vợ hoặc chồng sẽ được xác định khác nhau. Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh riêng thì chồng hoặc vợ của họ chỉ có thể là người uỷ quyền để xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến một hoạt động kinh doanh cụ thể nào đó khi được ủy quyền.

Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung, với kết cấu của Điều 25 Luật năm 2014, việc kinh doanh chung trong trường hợp này là vợ chồng cùng tham gia trực tiếp vào quan hệ kinh doanh và việc kinh doanh đó có thể được thực hiện bằng tài sản riêng hoặc bằng tài sản chung. Khi cùng tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh chung thì vợ, chồng sẽ có tư cách uỷ quyền cho nhau trong các khâu, các quá trình của hoạt động kinh doanh đó. Vì vậy, uỷ quyền trong trường hợp kinh doanh chung ở đây là uỷ quyền đương nhiên, mà không phải là uỷ quyền theo ủy quyền.

(ii) Hệ quả pháp lý của các giao dịch thực hiện trên cơ sở uỷ quyền theo ủy quyền giữa vợ và chồng liên quan đến tài sản chung của vợ chồng

Theo quy định tại Điều 24 Luật năm 2014, vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch mà theo hướng dẫn của pháp luật phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Về nguyên tắc, các giao dịch liên quan tới tài sản chung của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng, trừ trường hợp các giao dịch được vợ hoặc chồng xác lập nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tuy nhiên, nếu định đoạt những tài sản chung của vợ chồng như bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình thì dù có vì nhu cầu thiết yếu của gia đình vẫn phải có sự thỏa thuận của vợ chồng bằng văn bản. Sự thỏa thuận đó có thể được thể hiện qua việc ủy quyền khi một bên không thể trực tiếp tham gia giao dịch. Giao dịch do vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện trên cơ sở ủy quyền có giá trị pháp lý như giao dịch do cả hai vợ chồng xác lập và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.

Trong thời kỳ hôn nhân, một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện các giao dịch mà không có sự thỏa thuận hoặc ủy quyền của người kia và không vì nhu cầu thiết yếu của gia đình thì người xác lập giao dịch phải chịu trách nhiệm riêng về các hậu quả pháp lý phát sinh từ các giao dịch đó. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, còn có nhận định khác nhau dẫn tới phán quyết khác nhau giữa các cấp xét xử về nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện. Vì vậy, đối với các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng xác lập, việc xác định rõ ý chí, sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc có sự ủy quyền của bên kia được không có ý nghĩa cần thiết để xác định nghĩa vụ tài sản tương ứng của vợ, chồng.

Trong đời sống hôn nhân, vợ hoặc chồng có thể thỏa thuận để một bên kinh doanh bằng tài sản chung. Việc kinh doanh luôn tiềm ẩn những rủi ro cho kinh tế gia đình, đặc biệt khi quy mô kinh doanh càng lớn với số vốn lớn. Để đảm bảo lợi ích chung của gia đình, khi một bên vợ hoặc chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh đòi hỏi phải có sự thỏa thuận, thống nhất của vợ chồng bằng văn bản. Trong trường hợp có sự thỏa thuận của vợ chồng đồng ý cho một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người đó “có quyền tự mình thực hiện giao dịch” liên quan đến tài sản đã đưa vào kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là người đó có quyền uỷ quyền cho chồng hoặc vợ mình trong hoạt động kinh doanh đó. Do vậy, các nghĩa vụ về tài sản phát sinh từ các hành vi kinh doanh của vợ hoặc chồng đều là nghĩa vụ chung của vợ chồng, lợi nhuận có được từ hoạt động kinh doanh là tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp này, sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh là cần thiết để tránh tranh chấp xảy ra và có cơ sở để giải quyết khi cần thiết.

Trên đây là Hậu quả pháp lý khi vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com