Phân tích tác phẩm “Lẽ ghét thương” (trích từ “Lục Vân Tiên”) là một công việc có ý nghĩa lớn trong việc khám phá và hiểu sâu hơn về văn học Việt Nam. Tác phẩm này vẫn đang được đánh giá là một trong những tác phẩm văn học yêu thích và được nhiều người đọc quan tâm.
1. Dàn ý phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên:
1.1. Mở bài:
Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ vĩ đại, được biết đến với sự nghiệp văn học đầy đau thương và bất hạnh. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, ông đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống và đóng góp vào ngành giáo dục để trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, tác phẩm của ông luôn thể hiện sự tư duy sâu sắc và tình yêu đối với đất nước.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” là một ví dụ tiêu biểu cho sự tinh tế và sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu trong việc miêu tả tình cảm con người. Trong đó, ông đã tả lại những cảm xúc đau thương của một người mẹ khi con trai mình bị giết hại. Bằng cách sử dụng những từ ngữ tinh tế và hình ảnh sâu sắc, ông đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về tình mẫu tử và tình yêu đất nước.
1.2. Thân bài:
a. Thái độ ghét thương trong lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên
b. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn
c. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn
d. Tư tưởng và tấm lòng của tác giả trong truyện
1.3. Kết bài:
– Cảm nhận chung đối với nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
2. Phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên hay nhất:
Đoạn trích trên là một phần trong bình giải của nhà thơ Xuân Diệu về bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu – một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XIX. Trong đoạn văn này, Xuân Diệu đã giải thích một khái niệm vô cùng quan trọng trong văn học và văn hóa Việt Nam, đó là “thương ghét” – một cảm xúc mâu thuẫn, đan xen giữa tình yêu và sự căm ghét.
Theo Xuân Diệu, “thương ghét” là một tâm trạng phổ biến trong lòng nhân dân Việt Nam, đã xuất hiện từ rất lâu đời và được thể hiện qua nhiều tác phẩm văn học, từ truyện cổ tích đến những bài thơ ca ngợi tình cảm gia đình, tình yêu đất nước hay tình bạn. Tuy nhiên, “thương ghét” cũng là một khái niệm khó hiểu, đa chiều và không thể giải thích một cách đơn giản. Đó là lý do vì sao Xuân Diệu đã dành nhiều thời gian để phân tích và giải thích khái niệm này trong bình giải của mình.
Trong đoạn văn, ông Quán tường thuật về bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu và những cảm xúc về sự ghét và thương. Ông Quán cho biết rằng Nguyễn Đình Chiểu đã viết về tình cảm phổ biến của con người về sự ghét và thương, nhưng làm điều đó một cách đơn giản, rõ ràng và có điệu nhạc, khiến nó trở thành một ví dụ kinh điển cho loại thơ này. Ông Quán tiếp tục giải thích rằng ông ghét sự suy đồi xã hội, dối trá đạo đức, bạo lực và áp bức đã làm cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn. Qua cảm xúc của mình, ông Quán thể hiện sự đồng cảm với những người dân bình thường đã phải chịu đựng trong điều kiện đó.
Trong khi đó, ông Quán cũng thể hiện tình yêu của mình đối với những người có tài năng và đức độ, nhưng lại bị hạn chế bởi hoàn cảnh của họ. Tình cảm của ông Quán rất sâu sắc, và những lời ông nói rất mạnh mẽ và chính xác. Sự lặp lại của từ “ghét” trong bài thơ truyền đạt sự mãnh liệt của cảm xúc của ông, và nhịp điệu tự nhiên của các từ làm tăng tác động của chúng. Sử dụng ngôn ngữ đời thường trong bài thơ cũng rất hiệu quả, làm cho nó trực tiếp và mạnh mẽ hơn. Nhìn chung, thơ Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với tính trực tiếp và sức mạnh của nó, và nó là một minh chứng cho sức mạnh của ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc sâu sắc.
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ông Quán thương những nhân vật nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống. Ông thương họ vì họ gặp khó khăn, không có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của mình. Nhìn chung lại, ông Quán thương người có tài, có đức trọng ở đời bị đang dở, bị hãm hại. Qua mấy điều thương này ta thấy ông Quán hết sức thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.
Trong đoạn văn này, Ông Quán nhận xét về bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu về tình yêu và căm ghét danh vọng. Ông cho rằng đây là cảm xúc được chia sẻ bởi nhân dân trong lịch sử, và nhiều nhà thơ đã viết về đức và tà của xã hội. Tuy nhiên, Chiểu đã viết nó một cách đơn giản, rõ ràng, âm nhạc và xúc cảm, khiến nó trở thành một ví dụ kinh điển về chủ đề này.
Quán, người đã chứng kiến cuộc thi thơ giữa Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm và Trịnh Hâm cũng đã đùa rằng Kiệm và Hâm không giỏi thơ và Tiên và Trực đang sao chép những bài thơ cổ. Tiên yêu cầu Quán giải thích vì sao người ta thích căm ghét và ghét thương trong cuộc sống, và Quán trả lời với bài phát biểu nổi tiếng của ông về “lẽ ghét và lẽ thương”.
Trong bài phát biểu đó, Quán liệt kê bốn thứ ông ghét: cuộc sống khốn khổ của Kiệt và Trụ, sự bất công của pháp luật, sự tham nhũng của Ngũ Bá và sự đạo đức giả của Thúc Quý. Ông coi đó là nguồn gốc của sự suy đồi xã hội, sự thoái trào đạo đức, sự hèn hạ và dâm dục, làm cho nhân dân phải chịu đựng đau khổ. Bằng cách liệt kê những thứ đó, Chiểu đã thiết lập một tiêu chuẩn rõ ràng cho những thứ đáng ghét: bất cứ điều gì gây đau khổ, nhầm lẫn hoặc gây hại cho người khác đều xứng đáng bị ghét.
Sự căm ghét của Quán rất mạnh mẽ và cụ thể, như được thể hiện bởi câu nói nổi tiếng của ông: “ghét sâu, ghét đắng, ghét tận cùng”. Tình yêu của ông cho người khác cũng rất mạnh mẽ, như được thể hiện qua bảy lý do để thương xót: những nhân vật nổi tiếng của Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống. Ông coi họ là biểu tượng của tinh thần con người, mà ông tôn kính và ngưỡng mộ.
Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là sự tương tác giữa tình yêu và căm ghét, cách mà một thứ có thể biến thành thứ khác và cách chúng thường được liên kết với nhau trong cuộc sống. Khi nói về những thứ ông ghét, Quán tiết lộ tình yêu sâu sắc của ông đối với nhân dân, mong muốn bảo vệ họ khỏi sự hại động và cảm giác công bằng. Khi nói về những thứ ông yêu, Quán thể hiện sự căm ghét của ông đối với những kẻ hèn nhát và đê tiện, những người sẽ cố gắng phá hoại sự vĩ đại và tốt đẹp của người khác. Sự song hành của tình yêu và căm ghét này…
Mấy câu thơ:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm
Hai câu thơ này rất đẹp. Hai câu thơ bao gồm bốn từ “ghét”, thể hiện sự mãnh liệt của cảm xúc. Hơn nữa, các từ “ghét” được sắp xếp theo một nhịp điệu tự nhiên, êm ái và sâu sắc. Cách sử dụng từ ngữ tương tự như cách sử dụng lóng: “ghét cay, ghét đắng”, “ghét chuyện tầm phào”, chân thành, thẳng thắn, không do dự. Vẻ đẹp của thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp của sự thật thà, rõ ràng và kiên quyết, và vì thế mà rất mạnh mẽ.
3. Phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên chọn lọc:
Truyện Lục Vân Tiên là một tác phẩm văn học lớn của Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu mến. Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác truyện thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã mất thị lực và về Gia Định để mở trường dạy học và chữa bệnh cho người dân. Nội dung của tác phẩm dựa trên các mô típ của văn học dân gian và truyện trung đại, kết hợp với một số tình tiết có thật trong cuộc đời của tác giả.
Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn. Trên đường đi thi, anh đã đánh tan bọn cướp và cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện gắn bó với Vân Tiên để đáp lại ân nghĩa. Trước khi thi, Vân Tiên đã nhận được tin mẹ qua đời và phải về chịu tang. Anh rất đau lòng và khóc mẹ đến mù hai mắt. Trịnh Hâm, một kẻ xấu tính vì ghen tài nên đã lừa Vân Tiên rớt xuống sông. Anh được vợ chồng ông Ngư cứu sống và sau đó về quê nhà. Tuy nhiên, anh lại bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) phản bội và đưa vào hang núi bỏ rơi. Nhưng Vân Tiên được Thần, Phật giúp đỡ và cuối cùng, mắt anh trở lại sáng, anh thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi đánh giặc ô Qua.
Nguyệt Nga luôn chung thủy với Vân Tiên. Tuy nhiên, khi bị Thái sư bắt đi cống cho giặc, cô đã nhảy xuống sông tự tử, nhưng may mắn được cứu sống. Sau đó, cô bị cha con Bùi Kiệm ép duyên và phải bỏ trốn. Cuối cùng, khi Vân Tiên thắng trận trở về, anh tình cờ gặp lại Nguyệt Nga và cùng cô kết duyên chồng vợ.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn, được coi là một ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và đón nhận bởi vì chúng phản ánh tâm hồn, cốt cách của con người trong xã hội. Trong sự nghiệp của mình, tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên, một tác phẩm văn học được đánh giá cao về quan điểm và tư tưởng về con người, xã hội. Trong đoạn trích “Lẽ ghét thương”, thông qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương đáng ngưỡng mộ.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và một số nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây, Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong cuộc đua tranh đó, Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó, ông Quán đã nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương trong đời.
Ông Quán tự giới thiệu về chính mình bằng những câu thơ: “Kinh sử đã từng, coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa. Hỏi thời ta phải nói ra, vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Ông Quán vốn là một sĩ tử, từng học kinh sử với mơ ước trở thành một nhà văn học, giúp ích cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Tuy nhiên, ông vẫn giữ được lòng yêu nghề và tinh thần của một người sĩ tử. Ông Quán được coi là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại và hòa mình với thiên nhiên. Có thể coi ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.
Câu nói “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai tình cảm đối lập: ghét và thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng luôn tồn tại song song với nhau. Người ta ghét những điều tầm thường, giả dối nên mới thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy, hai trạng thái cảm xúc này luôn tồn tại và không tách rời nhau.
Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính bản thân:
Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương
Ông Quán là một kẻ sĩ tử, đã dùi mài kinh sử với mơ ước công danh và giúp ích cho đời. Tuy nhiên, có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Tuy nhiên, cái hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi không bao giờ mất đi. Ông Quán được coi là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Có thể xem ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.
Mối quan hệ giữa hai trạng thái cảm xúc đối lập, đó là ghét và thương, luôn tồn tại song song với nhau. Người ta ghét những điều tầm thường, giả dối để từ đó thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy, chúng luôn đi đôi với nhau và không thể tách rời. Câu nói “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai tình cảm đối lập này.
Trong cuộc trò chuyện với ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi, Lục Vân Tiên đã tỏ ra khiêm tốn và mong muốn nghe lời dạy của bậc tiền bối. Ông nói: “Trong đục chưa tường, chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?” Có lẽ một người tài giỏi, thông minh như Vân Tiên đã hiểu rõ lẽ ghét thương trong cuộc sống. Tuy nhiên, với tư cách một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm nhường để được nghe lời dạy của ông Quán.
Trích đoạn thơ của Lục Vân Tiên thể hiện những điều mà tác giả ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/ Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Tác giả thể hiện sự ghét bỏ chế độ thối nát, vua chúa bạo tàn, chiến tranh liên miên khiến cho cuộc sống của nhân dân trở nên vô cùng khó khăn. Mỗi thứ mà tác giả ghét luôn đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví dụ như ghét đời Kiệt Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Điều khiến tác giả ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến người dân đều khiến tác giả ghét. Sự ghét bỏ đó gắn bó sâu sắc với lòng thương dân, yêu dân sâu nặng.
Còn điều ông thương là gì? Đó là thương những người đức tài như Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm và Hàn Dũ. Những người này đã cống hiến cả cuộc đời cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vô cùng truân chuyên và vất vả. Lòng thương gắn liền với tấm lòng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ông Quán đã rút ra chiêm nghiệm cho chính mình.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu được viết bằng thứ ngôn tư giản dị, mộc mạc, nhưng lại mang trong mình sức biểu cảm đầy phong phú và tinh tế. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa sa hầm và sẩy hang, sớm đầu và tối đánh để tạo nên một nhịp thơ linh hoạt, tươi sáng, bắt mắt. Những câu thơ của ông ta được xây dựng bằng những từ ngữ đơn giản, gần gũi, dễ hiểu và gần gũi với người đọc. Điều này đã giúp tác phẩm của ông trở nên dễ tiếp cận hơn với đông đảo độc giả.
Ngoài ra, tác phẩm còn phát huy nghệ thuật điệp ngữ, trong đó việc lặp lại “thương ông, thương ông” nhiều lần đã giúp tác giả diễn tả lẽ ghét thương của mình một cách rõ ràng và sâu sắc hơn. Việc sử dụng điệp ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu giúp cho những tư tưởng, quan điểm của ông trở nên rõ ràng hơn, đồng thời tác giả còn tạo ra một mối liên kết sâu sắc giữa tác giả và độc giả.
Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán. Ông có lòng yêu dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ông càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Tuy nhiên, để tạo ra một tác phẩm phong phú, tác giả có thể sử dụng thêm những thủ pháp khác để bổ sung cho tác phẩm của mình, như thêm các tình tiết phụ để làm nổi bật thêm những tư tưởng, quan điểm của mình. Bên cạnh đó, việc sử dụng các hình ảnh, so sánh, thể hiện một cách tinh tế sẽ giúp tác phẩm của tác giả trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Đằng sau những vần thơ thống thiết, ta có thể thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm của ông đã góp phần làm phong phú thêm di sản văn học Việt Nam, mở ra một trang mới trong lịch sử văn học Việt Nam. Những tư tưởng, quan điểm của ông là những giá trị văn hóa tinh túy, truyền lại cho thế hệ sau và cũng làm nên giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm của ông đã được những người yêu văn học đón nhận và trân trọng, đồng thời cũng đã góp phần làm tăng thêm niềm tự hào về văn hóa Việt Nam.