Luật Báo chí 2016 số 103/2016/QH13

Theo điều 3 Luật báo chí 2016 quy định Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Vậy Luật báo chí là thế nào ? Cùng lvn nghiên cứu ngay sau đây bạn ! !

Luật báo chí là gì ?

 

1. Luật báo chí là gì ?

Luật báo chí vào năm 1989 là văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật về chế độ báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo nguyên tắc bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của công dân.

Luật báo chí được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá VIII, kì họp thứ 6 thông qua ngày 28.12.1989, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02.01.1990, được Quốc hội sửa đổi, bổ sung ngày 42.6.1999. Luật báo chí là cơ SỞ pháp lí bảo đảm để báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; tăng cường công tác quản lya nhà nước về hoạt động báo chí, không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động đúng pháp luật, đồng thời nghiêm cấm, không cho phép ai được lạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.

Hiện nay, Luật báo chí năm 2016 và các văn bản pháp luật khác sửa đổi bổ sung Luật báo chí có quy định chi tiết về các vấn đề liên quan đến các vấn đề này.

Theo Luật báo chí, phạm vi điều chỉnh của Luật báo chí sẽ quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo chí.

2. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật báo chí

Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.

Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật báo chí là toàn bộ các vấn đề thuộc chế độ báo chí trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bao gồm:

– Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí;

– Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyển tự do ngôn luận trên báo chí;

– Các loại hình báo chí; quy định quyền và nghĩa vụ của đơn vị chủ quản báo chí, đơn vị báo chí, người đứng đầu đơn vị báo chí và nhà báo;

– Quy định những vấn đề cơ bản thuộc quản lí nhà nước về báo chí như nội dung quản lí nhà nước, đơn vị quản lí nhà nước về báo chí, thanh tra báo chí, lưu chiểu, phát hành, quảng cáo, họp báo; quy định điều kiện hoạt động của báo chí, cấp giấy phép hoạt động báo chí…

Chế độ báo chí Việt Nam lần đầu được quy định tại Sắc lệnh số 282/SL ngày 14.12.1956. Sắc lệnh này gồm 3 chương với 19 điều được Quốc hội thông qua bằng Luật số 100/SL-L002 ngày 20.5.1957 về chế độ báo chí. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà bước đầu đã thu được những thắng lợi cần thiết về nhiều mặt, để phát huy vai trò của báo chí trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, ngày 28.12.1989, Luật báo chí đã được ban hành. Sau gần 10 năm thực hiện, năm 1999 Luật báo chí được Quốc hội sửa đổi, bổ sung.

3. Nội dung luật báo chí

Về bố cục và nội dung cơ bản, Luật báo chí bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 30 điều. Mỗi chương, điều của Luật đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương và điều luật đó.

Chương 1 – Những quy định chung, quy định vai trò, chức năng của báo chí; những bảo đảm từ phía Nhà nước đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí; các loại hình báo chí.

Chương II quy định việc thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.

Chương III quy định nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí, theo đó quy định cụ thể về việc gửi tới thông tin cho báo chí; trách nhiệm trả lời trên báo chí; cải chính trên báo chí và đặc biệt là quy định những điều mà báo chí không được đưa thông tin.

Chương IV quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức báo chí như đơn vị báo chí, đơn vị chủ quản báo chí, Hội nhà báo Việt Nam; quy định về địa vị pháp lí của người đứng đầu đơn vị báo chí, nhà báo, cũng như các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà báo khi thực hiện nghiệp vụ báo chí trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động báo chí ở nước ngoài…

Chương V quy định những vấn đề quản lí nhà nước về báo chí gồm: nội dung quản lí nhà nước, đơn vị quản lí nhà nước về báo chí, quan hệ quốc tế trong hoạt động báo chí, xuất bản và phát hành báo chí, thanh tra báo chí, điều kiện hoạt động của báo chí, cấp giấy phép hoạt động, thành lập đơn vị uỷ quyền và đơn vị thường trú ở các địa phương, vùng, miền, ở nước ngoài, đơn vị thường trú của báo chí nước ngoài tại Việt Nam, thủ tục nộp lưu chiểu, phát hành, quảng cáo trên báo chí và tố chức họp báo…

Chương VI quy định về khen thưởng và xử lí vi phạm, các cách thức. vi phạm và hình phạt áp dụng, theo đó, việc vi phạm pháp luật không chỉ từ phía đơn vị báo chí, người đứng đầu đơn vị báo chí, nhà báo và những người gửi tới thông tin sai sự thật, mà còn từ những đơn vị, tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về gửi tới thông tin, cản trở hoạt động báo chí, đe doạ, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phá huỷ hoặc làm hư hỏng phương tiện, tài liệu của nhà báo và đơn vị báo chí hoặc vi phạm các quy định khác của Luật báo chí đều bị xử lí nghiêm khắc với các hình phạt kỉ luật, xử lí vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Chương VII gồm các điều khoản về thi hành luật…

Luật báo chí Việt Nam không thừa nhận các tổ chức báo chí tư nhân.

Theo đó, tư nhân không có quyền ra báo chí.

Báo chí ở Việt Nam là đơn vị ngôn luận của các tổ chức của Đảng, đơn vị nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân, để quần chúng nhân dân thông qua đó, nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình, phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới, góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, đơn vị nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức, đơn vị đó. Đồng thời thông qua báo chí, nhân dân biết được các thông tin về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới.

4. Một số thuật ngữ trong luật báo chí

– Cơ sở pháp lý: Luật báo chí năm 2016

+ Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.

+ Hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; gửi tới thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo hình.

+ Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.

+ Báo nói là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau.

+ Báo hình là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau.

+ Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử.

+ Tác phẩm báo chí là đơn vị cấu thành nhỏ nhất của sản phẩm báo chí, có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, gồm tin, bài được thể hiện bằng chữ viết, âm thanh hoặc hình ảnh.

+ Sản phẩm báo chí là ấn phẩm, phụ trương của báo in; nội dung hoàn chỉnh của báo điện tử; bản tin thông tấn; kênh phát thanh, kênh truyền hình; chuyên trang của báo điện tử.

+ Trang thông tin điện tử tổng hợp là sản phẩm thông tin có tính chất báo chí của đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, gửi tới thông tin tổng hợp trên cơ sở đăng đường dẫn truy cập tới nguồn tin báo chí hoặc trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí theo hướng dẫn của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

+ Tạp chí điện tử là sản phẩm báo chí xuất bản định kỳ, đăng tin, bài có tính chất chuyên ngành, được truyền dẫn trên môi trường mạng.

+ Tạp chí khoa học là sản phẩm báo chí xuất bản định kỳ để công bố kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin về hoạt động khoa học chuyên ngành.

+ Sản phẩm thông tin có tính chất báo chí là sản phẩm thông tin được thể hiện bằng các thể loại báo chí, được đăng trên bản tin, đặc san, trang thông tin điện tử tổng hợp của đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp…

5. Quyền và nghĩa vụ của báo chí

Báo chí của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là đơn vị ngôn luận của đơn vị Đảng, đơn vị nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân.

Theo đó, Báo chí có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a.Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân;

b. Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, Mục đích của đơn vị báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;

c. Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của Nhân dân;

d. Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các sự kiện tiêu cực trong xã hội;

đ. Góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng của các dân tộc thiểu số Việt Nam;

e. Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, hợp tác, phát triển bền vững.

6. Bố cục của Luật báo chí là thế nào ?

 Luật báo chí năm 1989 gồm 7 chương, 31 điều; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí năm 1999 đã bổ sung 6 điều và bỏ 1 điều. Sau khi sửa đổi, bổ sung năm 1999, Luật báo chí có 36 điều.

Luật báo chí năm 2016 gồm 6 chương với 61 điều (tăng 25 điều), trong đó có 32 điều xây dựng mới, 29 điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật báo chí hiện hành, cụ thể như sau:

– Chương I: Những quy định chung, gồm 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9)

– Chương II: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, gồm 4 điều (từ Điều 10 đến Điều 13)

– Chương III: Tổ chức báo chí, gồm 15 điều (từ Điều 14 đến Điều 28)

+ Mục 1: Cơ quan chủ quan báo chí, gồm 2 điều (Điều 14 và Điều 15)

+ Mục 2: Cơ quan báo chí, gồm 7 điều (từ Điều 16 đến Điều 22)

+ Mục 3: Người đứng đầu đơn vị báo chí, gồm 2 Điều (Điều 23 và Điều 24)

+ Mục 4: Nhà báo, gồm 4 điều (từ Điều 25 đến Điều 28)

– Chương IV: Hoạt động báo chí, gồm

+ Mục 1: Thực hiện thêm loại hình, sản phẩm báo chí, liên kết trong hoạt động báo chí, gồm 9 điều (từ Điều 29 đến Điều 37)

+ Mục 2: Thông tin trên báo chí, gồm 10 điều (từ Điều 28 đến Điều 47)

+ Mục 3: In, phát hành và truyền dẫn phát sóng, gồm 4 điều (từ Điều 48 đến Điều 51)

+ Mục 4: Lưu chiểu báo chí, gồm 2 điều (Điều 52 và Điều 53)

+ Mục 5: Hợp tác quốc tế trong hoạt động báo chí, gồm 3 điều (từ Điều 54 đến Điều 56)

– Chương V: Khen thưởng, thanh tra và xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí, gồm 3 điều (từ Điều 57 đến Điều 59)

– Chương VI: Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 60 và Điều 61)

Kết cấu các chương của Luật báo chí năm 2016 đã bỏ chương quản lý nhà nước về báo chí, thay đổi kết cấu chương III (Nhiệm vụ quyền hạn của báo chí), chương IV (Tổ chức báo chí và nhà báo) của Luật báo chí 1999 thành chương III (Tổ chức báo chí) và chương IV (Hoạt động báo chí) trong Luật báo chí năm 2016.

Luật báo chí năm 2016 đã pháp điển hóa quy định tại các Nghị định của Chính phủ để đưa vào luật, đồng thời bổ sung một số quy định mới để điều chỉnh hoạt động báo chí, cụ thể là các quy định về: Chính sách của Nhà nước về phát triển báo chí; hoạt động hợp tác của báo chí Việt Nam với nước ngoài; hoạt động báo chí của báo chí nước ngoài, đơn vị uỷ quyền nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam; bảo vệ nội dung các chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, báo điện tử; phản hồi thông tin…

7. Những nội dung mới của Luật báo chí là gì ?

Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy địnhQuyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo hướng dẫn của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Điều 25 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các nguyên tắc thực hiện quyền tự do báo chí: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Triển khai quy định của Hiến pháp 2013, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí và để hoạt động báo chí phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế- xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay, đối tượng được phép ra báo chí không bao gồm tư nhân. Công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình thông qua báo chí, công dân có quyền liên kết với đơn vị báo chí để hoạt động báo chí theo hướng dẫn. Báo chí có trách nhiệm truyền tải tiếng nói của người dân, bảo đảm quyền tự do ngôn luận.

Trên đây là những nội dung về Luật Báo chí 2016 số 103/2016/QH13 do Công ty Luật LVN Group gửi tới kiến thức đến khác hàng. LVN Group hy vọng nội dung trình bày này sẽ là nguồn thông tin hữu ích gửi đến quý bạn đọc !

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com