Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình hay nhất kèm dàn ý chi tiết

Đoạn trích: Nỗi thương mình (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) là một tác phẩm rất hay và ấn tượng. Bài viết dưới đây là tổng hợp Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình hay nhất kèm dàn ý chi tiết. Cùng tham khảo để có thêm kiến thức nhé.

1. Dàn ý chi tiết Nỗi thương mình hay nhất:

1.1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm “Truyện Kiều” và vị trí của đoạn trích “Nỗi thương mình”

– Đánh giá chung về đoạn trích “Nỗi thương mình”

1.2. Thân bài:

Vị trí đoạn trích “Nỗi thương mình”

Đoạn trích từ câu 1229 đến câu 1248, Truyện Kiều diễn tả tâm trạng buồn bã, bẽ bàng, nỗi nhớ cô đơn, tủi thân và trách nhiệm, ý thức về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Nội dung: Tác giả Nguyễn Du viết về hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều khi bị ép làm gái điếm. Nguyễn Du đã miêu tả hiện thực sinh động của bức tranh tiêu biểu về cuộc sống trong lầu xanh bằng những ước lệ tượng trưng:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

– Tác giả đã khai thác triệt để để làm nổi bật nỗi xót xa cho thân phận Thúy Kiều, xót xa cho Thúy Kiều và gây cảm giác đau khổ. Xót xa thực sự cho người đọc.

– Chỉ với 4 câu thơ đầu, dường như tác giả vừa là bức tranh về cuộc sống nhơ nhớp nơi lầu xanh, vừa là tiếng thở dài ẩn ý của người con gái tài sắc vẹn toàn bị ép làm gái bán hoa.

=> Tác giả Nguyễn Du dường như thực sự thương hại Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó

+ Có thể nói, dường như Thúy Kiều ý thức rất rõ ràng về phẩm cách cao quý của mình.

+ Thúy Kiều là người con gái tài hoa nhưng kém may mắn, được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu lí tưởng về cái đẹp và cái thiện. Khi cô ở trong một tình huống ô nhục mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Thúy Kiều dường như đã dùng hết sức vùng bẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng bám càng bế tắc. Nỗi đau “trần gian” cho một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thuý Kiều nhân lên gấp bội.

=> Giống như thi hào tài hoa Nguyễn Du đã diễn tả một cách chân thực nhất tâm trạng buồn tủi, tủi hổ của con người Thuý Kiều khi đối diện với chính lòng mình:

– Sống trong cảnh nói đủ tháng, cười suốt đêm, chỉ khi tỉnh rượu, cuối vụ, Kiều mới có những giây phút sống thật lạ với chính mình. Khi khách làng chơi đã ra về, lúc này chỉ còn là bóng tối, trời đã khuya lắm rồi, chỉ mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.

– Ở câu thơ thứ hai, nhịp điệu chuyển sang 2/2/2/2: giật mình/ chạnh lòng thương em/ xót xa. Hai từ giật mình. phù hợp với sự ngắt nhịp đột ngột như thể hiện tâm trạng thanh thản, đau đớn, buồn tủi của Thúy Kiều.

=> Thúy Kiều giật mình kinh hãi trước sự thay đổi ghê tởm của thân phận và cả tình cảm bị tổn thương của mình lúc này.

– Nỗi buồn có thể nói là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích.

Thúy Kiều buộc phải xa cha, xa mái ấm hạnh phúc của mình để bước lên con thuyền số phận: chao đảo vó câu, gặp bánh, lao đi trên con đường tăm tối, bất trắc.

– Thúy Kiều chua xót nghĩ đến sự tương phản khủng khiếp giữa quá khứ tươi đẹp hạnh phúc với hiện thực phũ phàng đen tối:

+ Nàng nhớ lại cuộc sống quyền quý, xa hoa khi còn ở nhà cha mẹ trước khi gặp tai họa và tiếc thân vì bị rải như hoa giữa đường.

Quá khứ tương phản với hiện tại một cách tàn khốc. Quá khứ tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ.

– Tác giả miêu tả tâm trạng của Kiều ở lầu xanh:

Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

+ Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa như mùa xuân có hoa; có gió; ánh trăng mùa thu; mùa đông tuyết rơi. Nhưng trước những cảnh đẹp ấy, Kiều lại dửng dưng, dửng dưng với trái tim đã bị những nỗi đau quá độ làm cho nguội lạnh.

+ Ở lầu xanh cũng có đủ thứ thú vui như cầm, kì, thi, họa nhưng đối với Kiều cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều vô nghĩa.

– Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

=> Bằng sự cảm thông thiết thực và bằng sức mạnh kì diệu. Nguyễn Du như đã viết hai trong số những bài thơ hay nhất về mối quan hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình trong văn học Việt Nam.

– Đoạn văn Nỗi sầu riêng chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự ý thức về bản thân của cá nhân trong văn học trung đại.

+ Người phụ nữ xưa thường được giáo dục tinh thần nhu hòa, thủy chung, cam chịu nhẫn nhục. Khi nhân vật Gióng cảm thấy tủi thân, điều này bao hàm ý nghĩa “cách mạng”. Con người chưa biết hy sinh, nhẫn nhịn, cam chịu nhưng bước đầu đã có ý thức về giá và nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của mình.

+ Chạnh lòng tủi thân là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ ca, văn học thế kỉ XVIII. Không thể có tình yêu sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, nếu không biết cách yêu chính mình.

– Đoạn trích Nỗi thương mình  của Thúy Kiều thể hiện những phẩm chất cao quý, trong sáng.

+ Không trốn tránh hiện thực phũ phàng, đề cao nhân cách, phẩm giá của Kiều qua việc thể hiện thành công nỗi buồn tủi, day dứt, chán chường giữa hư không.

1.3. Kết bài:

– Khẳng định tài năng của tác giả Nguyễn Du cũng như tầm ảnh hưởng của tác phẩm Truyện Kiều

– Qua đoạn trích có thể hiểu được tâm trạng chán chường, buồn bã, tuyệt vọng của Thúy Kiều, nàng dường như đã tự ý thức được nhân phẩm của mình bị che mờ nên lại càng yêu bản thân mình hơn.

2. Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình hay nhất:

Kể từ khi gia đình gặp tai biến, phải bán mình chuộc xác cha, trao tinh yêu cho em gái là Thúy Vân, Kiều đã phải sống 15 năm lưu vong, trong 15 năm ấy, lần nào Kiều cũng gặp phải sự che đậy, lừa gạt. Thúy Kiều bị lừa. Đau đớn nhất có lẽ là lần cô bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh. Đó chính là bước ngoặt khiến cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định giết nhưng bất thành.

Trên lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh cho tan xác. Tiếp theo là những tháng ngày tủi nhục, tủi nhục của cô khi làm gái bán hoa – một gái điếm, tim trong ngọc ngà mua vui cho giới nhà giàu. Những ngày ở lầu xanh của Thúy Kiều là những ngày nàng buồn bã tột cùng, tâm trạng nàng rối bời như cái lọ khi nghĩ đến thân phận, tủi nhục mặt đỏ tía tai. Đoạn trích có kết cấu khá logic với diễn biến tinh thần. Tâm trạng và sự uể oải của một kiếp người đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đau đớn: “Khi tỉnh… còn gì là xuân?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho hàng loạt cuộc trò chuyện vừa nối vừa rải. Kiều nghĩ đến thân phận của mình để rồi “Ta lại thấy tủi thân”. Kiều cảm thấy tủi thân. Đối với cô, hiện tại giống như một giấc mơ cay đắng khi cô so sánh nó với quá khứ.

Mở đầu phần Nỗi thương minh là tâm trạng xót xa, tủi hổ của Thúy Kiều phải chôn ở chốn lầu xanh của Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích thể hiện rõ hình ảnh lối sống trác táng, nhơ nhớp và thân phận tủi nhục của một cô gái điếm chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả hiện thực sinh động bức tranh cuộc sống nơi lầu xanh bằng những ước lệ tượng trưng. Trong tòa nhà màu xanh đó, Kiều phải tiếp khách để mua vui cho “nhiều” người đến nỗi cô không thể nhớ hay đếm, chỉ vì một điều mà ngày nào Kiều cũng tiếp khách Sóng chơi không ngớt “sốt đêm, giao sớm, tôi đang tìm ” lời nói ấy đã cho ta thấy nhịp sống nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi Tú Bà ăn nên làm ra.

Với những ẩn dụ: bướm bay lượn, chuyện đầy tháng, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du thể hiện rằng hoàn cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong lầu xanh có vẻ thanh tao tao nhã nhưng thực chất chỉ là giả tạo, hàng ngày Kiều phải làm việc bẩn thỉu, đủ loại khách đến mua vui.

Điều này cho ta hiểu hơn về hoàn cảnh bất hạnh, nắng mưa của Thúy Kiều. Lối thư pháp thông thường giúp Nguyễn Du không trốn tránh số phận thực của Kiều mà vẫn giữ được chân dung đẹp đẽ của nàng. Qua đó ta thấy được sự trân trọng, đồng cảm của tác giả đối với nhân vật.

Ông đã tái hiện hoàn cảnh của Thúy Kiều với những sự tương phản gay gắt: một bên là nước mắt của Thúy Kiều – một bên là cơn say, nụ cười triền miên. Làm như vậy ở bốn câu đầu, tuy không được miêu tả trực tiếp nhưng người đọc vẫn thấy Kiều cuộn mình trong cơn lốc vô hình, buộc vào cuộc đời hoài niệm chốn bồng lai. Hiện thực phũ phàng mà nhân vật phải trải qua, bộc lộ thân phận nhục nhã của cô gái điếm. Nguyễn Du đã làm đẹp cảnh đời ấy bằng ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: Ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo truyền thuyết làm cho hồi ức về cuộc đời đau thương của Kiều thêm thanh thoát. Vì chỉ có những đoạn hồi tưởng mới thể hiện được hết cuộc sống chân thực của nội tâm nhân vật, mới thể hiện được nỗi đau chân thực, làm nổi bật được giá thành và nỗi khổ đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là sự đồng cảm, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu đầu nêu ra một trạng thái của tâm hồn. Trong lầu xanh có nhiều gái điếm, họ có thể thảnh thơi coi công việc của mình là nhàn nhã lắm, hay thay Kiều lại có một phẩm cách đẹp lãng mạn như thế, một tâm hồn trong sáng, một bông hoa xuất thân từ cảnh. đang sống “mộng yêu bức màn” bỗng chốc bị ném xuống bùn, hai câu tiếp tục nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, tủi nhục, bị cưỡng bức, phiêu bạt mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở chốn lầu xanh đầy những “hẹn hò nói cười”, chỉ có “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có giây phút hi sinh để sống thật với chính mình và cũng là hoàn cảnh mà Kiều đang ở. tỉnh táo nhất để đối mặt với mọi người. Tôi. Thời gian và không gian thật tĩnh lặng như gợi lên nỗi buồn man mác. Nhịp thơ có sự biến đổi giữa hai câu thơ ở nhịp 3/3 sang nhịp 2/4/2. Hai từ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp đó diễn tả sự thay đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Cô bị sốc và đau buồn trước thực tế phũ phàng và một mình cô cảm thấy tiếc cho chính mình, thương tiếc cho số phận bi thảm và dài của chính mình.

Tự tôn không phải chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một tác động trái chiều nào đó của ngoại cảnh. Đó chính là cái giật mình từ những tình cảm bên trong mà nếu không có Kiều thì cũng giống như bao cô kỹ nữ khác trong quán rượu của Tú Bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá nặng nề về thể xác và phẩm giá của mình ở chốn lầu xanh, nỗi cô đơn và đôi mắt lim dim bất lực trước bao nhiêu tệ nạn, cạm bẫy. bao vây tôi nhưng tôi không thể chống cự. Từ “mình” được lặp lại ba lần trong câu thơ như tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được phẩm giá, nhân cách, quyền sống của mình cũng chính là ý thức, quyền sống của cá nhân. những con người trong chính sử mà Nguyễn Du muốn gửi gắm đến người đọc.

Còn hai câu trên với nhịp điệu bẽ bàng của Kiều thì những dòng sau là dòng hồi ức, hồi ức trong sáng, chân thực lúc chiều tà:

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Một cô gái tài sắc vẹn toàn, tài sắc vẹn toàn, dịu dàng và lạnh lùng. Một cô gái nhớ gia đình giờ đã trở thành một bông hoa rải rác. Sự thay đổi quá nhanh khiến chính Kiều cũng bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu trích dẫn cả đoạn văn và hay nhất là ở hai câu này tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo ra sự so sánh tương phản giữa hai quãng đời, hai thời điểm, hai cảm xúc. Cặp từ đối lập chỉ thời gian: “Khi sao / giờ sao” tạo cảm giác thay đổi đột ngột trong một khoảng thời gian không mấy rõ rệt. Vì thế mà vết thương của Kiều trùm kín đầu, nỗi đau tột cùng dường như càng hằn sâu thêm nỗi đau tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện ra đối lập gay gắt với thực tại, Kiều nhớ lại những năm tháng “dịu dàng tả tơi” thì ngay lập tức hiện thực phũ phàng hiện ra rõ ràng hơn rất nhiều, từ “gió gấm” Diễn tả một sự thanh bình, yên ả trong quá khứ đối lập rõ nét với từ “ biến mất” trong câu thơ nói lên hiện tại như hiện thực phũ phàng chôn vùi quá khứ tươi đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự tương phản tuyệt vời giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Các cụm từ “ong bướm chán ong”, “dày gió sương” là nét sáng tạo trong cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh sự so sánh theo mức độ tăng tiến, cho ta thấy sự xô đẩy, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. con gấu. Các câu hỏi tu từ ở đây được ND sử dụng. Mục đích làm rõ nỗi đau khổ, tủi hổ của Kiều trước hành động oan nghiệt, tàn ác.

Hai câu thơ hôm nay chất chứa tiếng thở dài tuyệt vọng của người con gái tài hoa hơn người, khao khát hạnh phúc mà nay đã chán chường:

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ mình, lặp đi lặp lại hàng ngày ai cũng sẽ cảm thấy nhàm chán và muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách (số nhiều) và mình – Kiều (số ít) dường như càng thể hiện sự cô đơn của nàng. Chữ “xuân” ở đây chỉ niềm vui hưởng hạnh phúc lứa đôi, nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ, quấn quýt lấy người khác thì không có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự uể oải, lẻ loi, lẻ loi. và nỗi cô đơn của cuộc sống của một kỹ nữ. Chữ “mặc định” ở đây chỉ là sự bất lực, cho dù mọi chuyện muốn đi đến đâu thì Thúy Kiều nặng trĩu chăn gối cũng đành chịu.

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện ra, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ về đây, gió xuân vi vu, hạ hoa đua sắc khoe hương, thu trăng sáng, tuyết rơi bao phủ cả tầng lầu, tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên một bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của tòa lầu xanh và trong đó có đủ thứ thú vui của con người: cầm – thi – thi – họa. khiến bức tranh ấy trở nên nhịp nhàng, sinh động hơn bao giờ hết. Nhưng nâng tầm những cảnh thiên nhiên tươi đẹp, tao nhã và thơ mộng thì chẳng khác nào hôn, mai, chua. Bởi dù có ngụy trang tài tình đến đâu cũng không thể chê được bản chất nhớp nhúa dở khóc dở cười ở chốn “buồn bán người”. Đoạn thơ như vậy đồng thời tập trung vào tâm trạng của Kiều: Kiều luôn phải tự phân thân thành hai nửa: một con người ăn chơi, giả tạo và một con người thật thà, sống để rồi day dứt.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu tê tái.. Khi gió như hoa, khi cung cầm thơ, nỗi buồn luôn tràn và phát tiết trong lòng. Ý thức về phẩm giá, một khi thức tỉnh, sẽ lại bị chà đạp, khiến cô không đội trời chung với sự sỉ nhục và sỉ nhục thân phận của mình. Hai từ “đòi phen” được lặp đi lặp lại trong tám câu thơ càng cho thấy rõ đó là nỗi đau triền miên chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi niềm của Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan sang vật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Với sự đồng cảm kỳ lạ, và với tài năng tuyệt vời, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lý của mọi thời đại. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh cao của đoạn văn bởi nó được miêu tả sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật, từ đó lan tỏa đến cảnh vật một cách tự nhiên và hợp lý. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng trào, như con sóng Miên không bao giờ nguôi, nó cứ ngủ quên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi một lúc nào đó tức nước vỡ bờ, nó lại trỗi dậy, bóc tách. Phong trần đã chạm đến trái tim và tình cảm của Thúy Kiều, khiến mọi thứ qua đôi mắt nàng trở nên u uất, khuya vắng nhuốm màu tang tóc.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế và độc đáo mà tâm trạng này nàng Kiều của tài tử Thanh Tâm không có được. Từ “cười” nói lên tất cả sự trôi dạt, cô đơn cũng là sự xả thân, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhớ nhung, phải tiếp khách làng chơi, phải nếm trải những cuộc say, quanh năm cười đùa, phải lười biếng… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí có thể mường tượng ra sự đời. Tôi bi thảm đến mức nào? Giữa chốn lầu xanh, tiền đi về, bao người đến rồi đi, điều cuối cùng còn lại với Kiều chỉ là sự chia ly, đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn, không còn ai là tri kỷ, đâu có thể “mặn nồng” mà sâu đậm. trong lòng Kiều luôn tìm kiếm một trái tim, một người hiểu mình. Một lần nữa, ngôn ngữ nửa trực tiếp làm cho câu thơ có những tầng ý sâu xa, kết hợp với câu hỏi tu từ chua chát, thể hiện phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều là kiêu hãnh, đoan trang, đoan trang. Tôi muốn sống một cuộc sống bình yên và trong sáng.

Đoạn trích hoàn toàn không thể biên tập số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách cao đẹp và khẳng định ý thức về phẩm giá, cá tính của nàng. Riêng Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật bằng ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời giả và nhân vật như hòa quyện vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật-người đọc.

3. Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình ý nghĩa nhất:

Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân lấy cớ Mã Giám Sinh cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối lương duyên Kim Trọng cho Thúy Vân, những nghi ngờ về sự hi sinh của Kiều đã đến hồi kết thúc. kết thúc, nhưng số phận cuộc đời thất thường, vui vẻ ở đời có kẻ bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thực sự đi vào bi kịch khủng khiếp. Sau lần quyên sinh không thành, Kiều bị Tú Bà ép đi tiếp khách, dần trở thành gái bán hoa trong vô vàn tủi nhục.

Số phận chìm nổi của Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa với câu “Đời đau là phận đàn bà/ Chữ rằng đời tủi cũng là chữ chung”. Nhưng ở đây, hơn ai hết, Thúy Kiều là người cảm nhận rõ nhất cảnh ngộ của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích Trăm duyên.

“Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chốn đồi truỵ của ong bướm, hình ảnh “bướm bay lả tả” gợi một viễn cảnh hết sức dung tục, ví gái điếm như bông hoa đẹp còn khách làng chơi như con ong. người máy, uể oải, lếch thếch, nghĩ hoa này, sờ hoa kia, rất hỗn độn, lộn xộn và hoang đường. Ở nơi mưa hạnh phúc ấy, người ta chỉ thấy mùi hương nồng nàn quyện với mùi phấn thoang thoảng của “nguyệt san”, với khoái cảm “tiếng cười thâu đêm”, nam nữ vui vẻ bất kể đêm khuya, ồn ào v.v. .nhiệt và xilanh. Nhưng người phụ nữ ở trần lại trở thành món đồ chơi để người khác tiêu khiển, kẻ đến người đi nhiều, kẻ lạ, nhưng có thể hiện lên hình ảnh nụ cười “mỉm cười” của đàn ông. Đàn bà chơi đùa, nắng mai, đầu kề vai, má kề má như lá với gió, cành với chim.

Người kỹ nữ tiếp khách ngày đêm cũng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách là ai, già hay trẻ, xấu đẹp, nhân phẩm, tư cách, cái họ trao đổi chỉ là những thú vui xác thịt và tình bạn. tiền rẻ, sớm nhận ra bạn là ai một lần nữa. Trong đoạn trích để khắc họa hình tượng hiệp khách, Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có thật trong sử sách, một là Tống Ngọc, nổi tiếng với bài phú Cao Đường kể chuyện tiên nữ Vu Sơn và tiên vương. nước, ám chỉ khoái cảm nam nữ. Hải là Trường Khanh, tên tự của Tư Mã Tương Như, từng hát phượng múa cầu hoàng đế để quyến rũ một quả phụ xinh đẹp tuyệt trần Trác Văn Quân.

Như vậy, từ những hình ảnh ẩn dụ tinh tế qua lối tu từ cổ điển, tác giả đã khéo léo tái hiện khung cảnh giữa tòa nhà xanh nhuốm màu dục tình, cuộc sống nhớp nháp, hỗn độn, hoang đường của những đứa trẻ nơi đây . Nơi người phụ nữ trở thành một thú vui, một món đồ chơi tùy thích của những kẻ có tiền dùng vào những thú vui tầm thường, tầm thường. Rằng chốn lầu xanh mỗi ngày tắt đèn tắt hoa nhưng cuộc đời của một cô gái điếm luôn đắm chìm trong mê muội, tủi nhục và đầy cay đắng.

Còn thân Kiều là một tiểu thư biết chuyện trăng gió, tâm hồn thanh cao tao nhã, tài sắc vẹn toàn, những tưởng nàng sẽ xứng đáng với cuộc sống giàu sang, chiều chuộng. Nhưng dòng đời phú quý “Chữ tài, chữ tài, ghét nhau”, ai ngờ rằng sóng gió đã đưa cuộc đời Kiều vào địa ngục trần gian, khát khao, lưu manh cho đến tận cùng là lầu xanh. Ở đó, Kiều đã cố gắng hết sức trong vực thẳm, chống cự thậm chí đến chết nhưng vẫn không thoát khỏi số phận tủi nhục, tủi nhục. Để rồi sau mỗi cuộc “vui vẻ”, Kiều nhìn lại tấm thân tàn tạ của mình, lại ý thức được thân phận bồng bột của mình, nàng không khỏi chạnh lòng.

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình lại thấy thương mình xót xa”

Hai câu thơ ấy khiến người ta liên tưởng đến hai câu thơ “Chén hương đưa về tỉnh/ Trăng khuyết không tròn” của Hồ Xuân Hương, cũng là nỗi đau, nỗi nhớ về thân phận người phụ nữ, là nỗi buồn cay đắng cho một người phụ nữ. cuộc đời tươi đẹp, uống rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, nhưng khi tỉnh rượu, nỗi đau ấy lại càng nhức nhối và rõ ràng hơn. Nhưng khác với Hồ Xuân Hương chuốc say quên đời, bản thân Thúy Kiều buộc phải nói, ăn uống đủ đầy với khách làng chơi, qua ngày, đến cuối ngày cũng lạ. thức dậy khi cuộc vui đã tàn, bạn đã ra đi. Kiều giật mình, bàng hoàng nhìn xác nàng mà xót xa, xót xa cho tâm hồn.

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”

Nỗi đau của Kiều càng được thể hiện rõ nét hơn qua những câu thơ mang ý nghĩa xót xa của nàng. Nhắc lại truyện “Khi sao gió gấm buông” là nhắc nhớ về kiếp mộng mị tơi tả, buông màn năm xưa, khi Kiều còn sống dưới sự đùm bọc của cha mẹ, ai biết được chỗ phong cùi hơi đau. Chết tiệt, xin lỗi đến cùng. Trái ngược với những mộng đẹp ngày xưa, Kiều giờ đây buộc phải đối mặt với cuộc sống cũng đắm say trong màn trướng nhưng đắm chìm trong những tháng ngày sắc dục, bán bột bán hương cho đám tiếu. , ngày qua ngày nụ cười giả tạo, để lấy lòng người không quen biết.

Nhưng Kiều thấy mình đáp lại hai chữ “tung như hoa giữa đường” là đóa hoa mẫu đơn cao sang, thuần khiết để rồi cuối cùng lại trở về nơi đã bị chà đạp bao nhiêu “bướm bay bướm lượn”. Đạp không thương tiếc, chỉ để lại một bộ dạng tả tơi, bẩn thỉu. Khuôn mặt ngày xưa ngại ngùng, rụt rè, quạt che nửa mặt, ôm vào phòng, nay phải đưa cho Bắc Nam xem, để Nam ngắm nghía, nhận xét, và ôm vào lòng. vong như người tình, cử chỉ uyển chuyển, say nắng, xin. Chỉ nghĩ đến thân xác Thúy Kiều có thể thốt lên những lời than thở chua xót “Sao bướm chán ong bay!”, là ý thức về thân phận tàn tạ, rẻ rúng của nàng. Từ đó, người đọc dễ dàng nhận ra cuộc đời tủi nhục, tủi nhục và đau đớn tột cùng về cả thể xác lẫn tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.

“Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”

Nhưng cuộc đời xô bồ, xô đẩy, xô đẩy yếu ớt để đào tơ, Kiều vẫn mạnh mẽ, kiên cường, giữ mình tách biệt với loài sen trắng thanh cao, thanh khiết trong đầm “Gần bùn mà tâm hồn tanh bùn”. Thoáng ngang cõi xanh, đâu đâu cũng “mây mưa mây bay”, nàng cũng buồn đâu để ý, những thú vui, lạc thú, tầm thường ấy cũng chẳng thèm động đến tâm hồn đã ngẩn ngơ từ thuở ban đầu . vào đây. Đối với những người còn lại để tận hưởng màn đêm, đêm rõ ràng là “mùa xuân”, nhưng đối với cô, những điều đó đã khép lại, và không cần phải tha thứ. Bộc lộ cảnh khách làng chơi muốn “gió như hoa bên cạnh”, muốn gần gũi da thịt nhưng lòng tê tái, có lẽ nỗi cay đắng, tủi nhục đã khiến Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời lênh đênh. giữa chốn bồng bềnh. phong hoa tuyết nguyệt lai láng, mộng mị nhưng ẩn chứa trong đó là sự tầm thường, tầm thường.

Con người sống trong kiếp đau đớn về thể xác và tinh thần suy đồi, làm sao vui được khi nhắc đến đèn hoa giăng lối, tiếng cười rộn rã khắp nơi, rượu ngon tràn ly? Chính vì thế Nguyễn Du đã viết hai câu thơ “Cảnh trong mộng nào cũng buồn/ Người buồn bao giờ vui?”, để diễn tả đúng hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều. Nực cười làm sao giữa chốn phòng the dơ dáy mà còn “Xin phen vạch đường/Cung phụng ngắm trăng, trăng cắm cờ dưới hoa” để làm dịu đi đám người tầm thường tầm thường nhưng vẫn muốn tỏ ra mình là một. văn nhân văn hoa, nho nhã với thú cầm, thi, thi, họa cao.

Thúy Kiều là người thông minh, sắc sảo, không có điều gì là không hiểu, nhưng nhìn vào viễn cảnh trước mắt, nhìn vào số phận của mình, những điều mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên nhạt nhòa, chán chường. Đặc biệt là ở nơi mờ ám này, tài năng của cô ấy đã trở thành một thứ gì đó rất quyến rũ, tài năng của cô ấy hoàn hảo đến mức nào và làm sao cô ấy có thể thoát khỏi một cuộc sống dài đầy tủi nhục? Lòng Kiều đã chết, niềm vui cũng chỉ là gượng ép để có, chiều lòng người đến kẻ đi chẳng thiết tha, nghĩ đến bao nhiêu người chàng gặp hàng ngày ngưỡng mộ, thèm muốn trước sắc đẹp và tài năng của chàng. , nhưng liệu có tìm về được “tiếng lành nghe mặn với ai” của ai hay chỉ là phút thoáng qua. Điều đó càng làm cho Kiều hụt hẫng và buồn bã đến cùng cực.

Qua Đoạn trích Nỗi thương mình, ta cảm thương cho số phận của Thúy Kiều, một người phụ nữ đáng thương bị xã hội phong kiến ruồng rẫy không thương tiếc, cho đến khi tâm hồn tê tái vì đau đớn. Qua đoạn trích, ta cũng biết được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi hiểu và đồng cảm với nỗi đau của Thúy Kiều, đồng thời trân trọng và đề cao giá trị phẩm giá, vẻ đẹp đắm say của nàng Kiều. những phong tục đời thường nhưng vẫn giữ tâm hồn trong sáng, không vướng vào lối sống trụy lạc, hoang đường.

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com