Quyền sở hữu đất đai là gì?

Đất đai chính là thành quả của sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài của cha ông ta và cả dân tộc từ bao đời nay, vậy nên đất đai của nước ta sẽ thuộc sở hữu chung của toàn dân chức đất đai không thể thuộc về bất cứ một cá nhân hay bất kỳ một tổ chức nào khác. Để việc quản lý đất đai được chặt chẽ và có hiệu quả thì Đất đai sẽ do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu và quản lý. Vậy thì “Quyền sở hữu đất đai là gì”?. Hãy cùng LVN Group tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây của chúng tôi nhé.

Quyền sở hữu đất đai là gì?

Đất đai là một loại tài sản quý giá và không do bất cứ ai tạo ra, đây là loại vật chất có trước con người và là tặng vật của thiên nhiên ban tặng cho con người, Nhờ có đất đai mà cuộc sống của con người mới được duy trì và cải thiện. Theo quy định của pháp luật đất đai nước ta thì mọi người đều có quyền sử dụng đất và không ai có quyền biến đất đai thành tài sản của riêng mình.

Đất đai được hiểu là một vùng đất có ranh giới và có vị trí, diện tích cụ thể và có các thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi nhưng có tính chu kỳ, có thể dự đoán được, có ảnh hưởng tới việc sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của các yếu tố tự nhiên, kinh tế – xã hội như thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thuỷ văn, thực vật, động vật cư trú và hoạt động sản xuất của con người.

Tại Điều 4 và 5. Sở hữu đất đai Luật đất đai 2013 quy định về sở hữu đất đai như sau:

Tại Điều 4 Luật đất đai năm 2013 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo hướng dẫn của Luật này.”.

Điều 5. Sở hữu đất đai

1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu.

2. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau:

a) Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi chung là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất);

b) Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất;

c) Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;

d) Định giá đất.

3. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau:

a) Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;

b) Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;

c) Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại.

4. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua cách thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.”

 Điều 5 Luật Đất đai 2013 quy định người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất gồm:

– Tổ chức trong nước gồm đơn vị nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ chức khác

– Hộ gia đình, cá nhân;

– Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập cửa hàng hoặc có chung dòng họ;

– Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo;

– Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm đơn vị uỷ quyền ngoại giao, đơn vị lãnh sự, đơn vị uỷ quyền khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; đơn vị uỷ quyền của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, đơn vị hoặc tổ chức liên chính phủ, đơn vị uỷ quyền của tổ chức liên chính phủ;

– Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo hướng dẫn của pháp luật về quốc tịch;

– Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo hướng dẫn của pháp luật về đầu tư.

Vì vậy, có thể khẳng định, chủ thể quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam là toàn dân Việt Nam; toàn dân Việt Nam thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua người uỷ quyền là nhà nước sau đó sẽ trao quyền cho các đối tượng sử dụng đất.

Trong lĩnh vực quản lý sở hữu đất đai thì Đảng và nhà nước ta luôn đề cao việc tiếp tục phát huy dân chủ, luôn phát huy việc bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phương hướng và mục tiêu bao trùm trong hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Theo đó, Nhà nước là thiết chế uỷ quyền cho nhân dân có thể nói nhà nước là chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai ở nhà nước ta và thực hiện quyền chủ sở hữu đối với đất đai cũng là một phương diện để nhà nước ta tập trung đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Chủ thể quyền sở hữu toàn dân về đất đai

Như đã phân tích ở trên, Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân và do Nhà nước đứng ra uỷ quyền làm chủ sở hữu. Theo đó thì Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ có quyền thực hiện định đoạt đất đai. Quyền sở hữu uỷ quyền của Nhà nước mang tính chất duy nhất và tuyệt đối. Tuy nhiên việc sở hữu đất đai này sẽ phải tuân thủ theo ý chí của nhân dân và các quy định của pháp luật đã ban hành.

– Tính duy nhất thể hiện, pháp luật không cho phép tồn tại bất cứ cách thức sở hữu nào khác ngoài cách thức sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là người uỷ quyền. Điều này có nghĩa là đất đai luôn thuộc về chủ thể nhất định là Nhà nước và pháp luật không cho phép có bất kì một hành vi nào xâm phạm quyền định đoạt đất đai của Nhà nước

– Tính tuyệt đối thể hiện, toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước dù đã được giao hay chưa được giao cho bất kì tổ chức, cá nhân nào sử dụng đều thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu và thống nhất quản lí. Hơn nữa, dù đất đai do bất cứ ai sử dụng và sử dụng vào bất kì mục đích gì thì cũng đều phải tuân thủ các quy định của Nhà nước.

Bên cạnh đó, về mặt lý luận cũng cần có sự phân biệt giữa quyền của Nhà nước với tư cách là người uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai với quyền của Nhà nước với vai trò là người quản lí đất đai. Điều này có nghĩa là không nên đồng nhất khái niệm chủ thể quyền sở hữu toàn dân về đất đai với các đơn vị Nhà nước có thẩm quyền quản lý đất đai, như: Chính phủ; ủy ban nhân dân các cấp; đơn vị tài nguyên và môi trường ở trung ương và địa phương.

Nhà nước là uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai song các đơn vị quản lý nhà nước về đất đai không phải là người uỷ quyền chủ sở hữu. Các đơn vị này chỉ có trách nhiệm thực hiện các chức năng cụ thể, riêng biệt trong quản lý đất đai, nhằm thay mặt Nhà nước thống nhất quản lí và thực hiện các nội dung cụ thể của quyền sở hữu toàn dân về đất đai do pháp luật quy định.

Trong lĩnh vực đất đai, Nhà nước với tư cách uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai cũng có những quyền năng nói trên đối với đất đai. Tuy nhiên, khác với người chủ sở hữu tài sản trong lĩnh vực dân sự, Nhà nước thực hiện quyền sở hữu đất đai một cách tuyệt đối và không bị hạn chế.

Điều này có nghĩa là Nhà nước có toàn quyền trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và quyết định mọi vấn đề quan trọng về đất đai, bởi lẽ khác với các chủ thể của quyền sở hữu khác, Nhà nước là một chủ thể đặc biệt của quyền sở hữu toàn dân về đất đai: vừa là chủ thể của quyền sử dụng đất đai, vừa là một tổ chức chính trị – quyền lực tự mình quy định cho mình các quyền năng và cách thức thực hiện các quyền uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Sự khác biệt này được tạo nên bởi tính đặc biệt của Nhà nước trong việc thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai và tính đặc biệt của đất đai với tư cách là một loại tài sản “đặc biệt”.

Các căn cứ của việc xác lập nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân

Hiện nay trên thế giới đang tồn tại nhiều cách thức sở hữu đất đai khác nhau, trong số đó phổ biến nhất phải kể đến đó chính là 3 cách thức sở hữu đất đai cơ bản gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Như đã phân tích ở trên thì tại Việt Nam đất đai sẽ thuộc sở hữu của toàn dân và do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu. Vậy thì có những căn cứ nào để nước ta xác lập nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Cơ sở lý luận: một số luận điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về tính tất yếu khách quan của việc quốc hữu hóa đất đai.

Xét trên phương diện kinh tế, việc tích tụ, tập trung đất đai đem lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao hơn so với việc sản xuất nông nghiệp trong điều kiện duy trì cách thức sở hữu tư nhân về đất đai.

Đất đai không do bất cứ ai tạo ra, có trước con người và là tặng vật của thiên nhiên ban tặng cho con người, mọi người đều có quyền sử dụng, không ai có quyền biến đất đai thành tài sản của riêng mình.

Kết luận của C.Mác: “Mỗi một bước tiến của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là một bước đẩy nhanh quá trình kiệt quệ hóa đất đai”.

Quốc hữu hóa đất đai do giai cấp vô sản thực hiện phải gắn liền với vấn đề giành chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản.

Việc xóa bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất của giai cấp tư sản phải là 1 quá trình tiến hành lâu dài, gian khổ.

Cơ sở thực tiễn:

Về mặt chính trị, ở nước ta, vốn đất đai quý báu do công sức, mồ hôi, xương máu của các thế hệ người Việt tạo lập nên, vì vậy nó phải thuộc về toàn thể nhân dân.

Về phương diện lịch sử, ở nước ta cách thức sở hữu nhà nước về đất đai (uỷ quyền là nhà vua ở các nước phong kiến) đã xuất hiện từ rất sớm và tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của dân tộc.

Về mặt thực tiễn, hiện nay nước ta còn gần một nửa diện tích đất tự nhiên chưa sử dụng (khoảng hơn 10 triệu ha) chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc. Việc xác lập đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý sẽ giúp Nhà nước có điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai theo kế hoạch phát triển chung nhằm quản lý chặt chẽ và từng bước đưa diện tích đất này vào khai thác, sử dụng hợp lý đi đôi với cải tạo, bồi bổ vốn đất đai.

Mời bạn xem thêm

  • Dừng đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện có được không?
  • Thuế môn bài hợp tác xã là gì?
  • Lấy lại tiền đóng bảo hiểm xã hội thế nào?

Kiến nghị

LVN Group là đơn vị pháp lý đáng tin cậy, những năm qua luôn nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của quý khách hàng. Với vấn đề Quyền sở hữu đất đai là gì? chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn luật đất đai Công ty LVN Group luôn hỗ trợ mọi câu hỏi, loại bỏ các rủi ro pháp lý cho quý khách hàng.

Liên hệ ngay

Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Quyền sở hữu đất đai là gì?” Hy vọng bài viết có ích cho bạn đọc, LVN Group tư vấn luật đất đai với đội ngũ LVN Group, chuyên gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như tư vấn hỗ trợ pháp lý về chuyển từ đất ao sang thổ cư. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi câu hỏi của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 1900.0191.

Giải đáp có liên quan

Tại sao đất đai thuộc sở hữu toàn dân?

Ngày 04/12/1953, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua Luật Cải cách ruộng đất. Trong đó nêu rõ mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất như sau:
“Điều 1. Mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất là:
– Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam; xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ,
– Để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân,
– Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển,
– Để cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến,
– Để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phòng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc”.
Tại Hiến pháp năm 1959, Điều 12 quy định:
“Các hầm mỏ, sông ngòi, và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân”.
Tại Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã phát biểu chỉ đạo như sau:
“Nhân đây tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong dự thảo Hiến pháp- Hiến pháp 1980-  mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân.
Có thể thấy, từ những ngày đầu cho đến tận bây giờ, pháp luật nước ta đã nhất cửa hàng và thống nhất quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Điều này là hoàn toàn đúng với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội, đúng với thực trạng ruộng đất nước ta, phù hợp với lợi ích toàn xã hội và cũng phù hợp lợi ích của người dân.
Việc thống nhất chế định sở hữu toàn dân về đất đai đã đảm bảo những giá trị sau:
– Về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân nên đất đai thuộc sở hữu toàn dân là một tất yếu.
– Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước là uỷ quyền chủ sở hữu và thống nhất quản lý là điều kiện hết sức quan trọng trong giai đoạn đất nước ta thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
– Đất đai thuộc sở hữu toàn dân phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam, tạo điều kiện cho người sử dụng đất nâng cao giá trị sử dụng đất, phát huy nguồn lực đất đai.
Chế độ sở hữu này bảo đảm được sự bình đẳng, tính công bằng trong việc Nhà nước thực hiện thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất….
Nhìn chung, đất đai không giống với các loại tài sản khác, sử hữu đất đai có tính đặc thù riêng, được chia sẻ giữa Nhà nước, cộng đồng và người nắm giữ.

Nội dung của quyền sở hữu toàn dân về đất đai là gì?

Quyền chiếm hữu đất đai
Quyền chiếm hữu đất đai là quyền của Nhà nước với tư cách uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai nắm giữ toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước.
Dưới góc độ pháp lí, quyền chiếm hữu đất đai có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ nó là cơ sở đầu tiên để xác lập quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai.
Nhà nước là uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thực hiện quản lí thống nhất toàn bộ vốn đất đai nhưng Nhà nước lại không trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất mà lại trao quyền chiếm hữu, sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài thông qua các cách thức giao đất, cho thuê đất, cho phép nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất. 
Quyền sử dụng đất đai
Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Xét về khía cạnh kinh tế, quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng vì nó làm thỏa mãn các nhu cầu và mang lại lợi ích vật chất cho các chủ sử dụng trong quá trình sử dụng đất.
Với tư cách uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài nhưng Nhà nước không mất đi quyền sử dụng đất đai của mình. 
Quyền định đoạt đất đai
Quyền định đoạt đất đai là quyền quyết định số phận pháp lí của đất đai. Đây là quyền rất quan trọng và chỉ có Nhà nước với tư cách là uỷ quyền chủ sở hữu toàn dân về đất đai mới được thực hiện quyền định đoạt đất đai.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com