Tội giết người có bị tử hình không? [Cập nhật 2023]

Giết người là một trong những hành vi xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe của con người. Vì vậy, Nhà nước quy định, người có hành vi giết người sẽ bị xử lý hình sự theo hướng dẫn của Bộ luật Hình sự. Bài viết dưới đây của LVN Group về Tội giết người có bị tử hình không? [Cập nhật 2023] hi vọng đem lại nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.

Tội giết người có bị tử hình không? [Cập nhật 2023]

I. Thế nào là tội giết người?

Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng của con người. Tội giết người được quy định tại Điều 123, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

   Căn cứ pháp lý của tội giết người

    Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 quy định về tội giết người như sau:

   1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: (a) Giết 02 người trở lên; (b) Giết người dưới 16 tuổi; (c) Giết phụ nữ mà biết là có thai; (d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; (đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; (e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; (g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; (h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; (i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; (k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; (l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; (m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; (n) Có tính chất côn đồ; (o) Có tổ chức; (p) Tái phạm nguy hiểm; (q) Vì động cơ đê hèn.

   2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

   3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

   4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

II. Phân tích cấu thành tội phạm của tội giết người

2.1 Yếu tố chủ thể thực hiện hành vi phạm tội

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm 2015 thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên.

Theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015 thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thoả mãn hai dấu hiệu: Dấu hiệu y học, mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động thần kinh và dấu hiệu tâm lý, mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi.

Người mắc bệnh trong trường hợp này: 1) Hoặc không còn năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội, không còn năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện đúng hay sai, được làm được không được làm… Vì vậy, họ cũng không còn năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội; 2) hoặc tuy có năng lực nhận thức và năng lực đánh giá tính chất xã hội của hành vi nguy hiểm, nhưng do các xung động bệnh lý khiến họ không thể kiềm chế được hành vi của mình.

Quy định trên cho thấy, người nào tuy mắc bệnh tâm thần, nhưng không mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Đây thực chất là trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế – một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

2.2 Yếu tố hậu quả do hành vi phạm tội gây ra

Đối với tội giết người thì hậu quả NGƯỜI CHẾT phải xảy ra, trừ một số trường hợp mặc dù chưa gây hậu quả chết người nhưng chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải chịu hình phạt về tội này. Đó là khi chủ thể đã thực hiện xong hành vi phạm tội, nhưng do yếu tố khách quan mà hậu quả chưa xảy ra (phạm tội chưa đạt, đã hoàn thành).

2.3 Yếu tố hành vi khách quan (hành vi thực hiện tội phạm)

Đối với tội giết người, hành vi khách quan được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.

Trường hợp dưới dạng hành động: Người thực hiện hành vi giết người dùng các phương tiện (vũ khí như dao, súng, kiếm, rựa,  gậy, xe máy, oto…v….v….) để tác động mạnh tới những vị trí trọng yếu của một người (đầu, tim, cổ,…v…v…) nhằm mục đích tước đoạt mạng sống một người. Người thực hiện hành vi giết người có thể thực hiện một cách công khai như đâm, chém nhiều nhát hoặc lén lút tinh vi như bỏ thuốc độc vào thức ăn, thả rắn độc vào nhà, v..v… pháp luật không giới hạn cụ thể những hành động nào bị cho là thực hiện hành vi giết người, việc phân tích nhận định để xác định có phải là hành vi khách quan tội giết người được không phụ thuộc vào phương tiện (vũ khí) thực hiện + vị trí tác động (điểm trọng yếu dễ dàng tước đoạt tính mạng người khác)

Trường hợp dưới dạng không hành động: Chủ thể không thực hiện hành động mà pháp luật yêu cầu phải làm trong khi đủ điều kiện để hành động, thường những chủ thể này hay gắn liền với trách nhiệm nghề nghiệp của họ như lính cứu hoả, bác sỹ, v…v.. ví dụ: Bác sỹ biết rõ bệnh nhân nguy kịch tính mạng, biết rõ có thể cứu chữa nhưng cố tình để mặc bệnh nhân chết.

2.4 Yếu tố mặt chủ quan (yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi)

Chủ thể thực hiện hành vi giết người với lỗi cố ý (Lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp)

Lỗi cố ý trực tiếp tức là: Người thực hiện hành vi giết người nhận thức rõ hành vi của mình dẫn tới hậu quả chết người và mong muốn hậu quả chết người xảy ra.

Lỗi cố ý gián tiếp tức là: Người thực hiện hành vi giết người nhận thức rõ hành vi của mình có thể dẫn tới hậu quả chết người, tuy không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.

III. Tội giết người có bị tử hình không?

Ngoài tội giết người quy định tại Điều 123, Bộ luật Hình sự còn có một số quy định với các tội khác cùng có hành vi giết người nhưng không có mức phạt tử hình, cụ thể như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ; Tội giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh; Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

Mức phạt cụ thể với các tội trên được quy định như sau:

Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ

Tại Điều 124 quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ như sau:

– Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Vì vậy, cùng là hành vi giết người nhưng tội giết con mới đẻ không có mức phạt tử hình.

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Theo Điều 125, người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khác với tội giết người quy định tại Điều 123 ở chỗ, tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó.

Ví dụ: Anh An uống say nên đã dùng lời lẽ xúc phạm nặng nề, chửi bới thậm tệ và đánh vào đầu anh Bình đang ngồi ăn bàn bên cạnh. Trong lúc mâu thuẫn, anh Bình bị kích động mạnh, không kiềm chế được nên đã dùng dao đâm vào bụng anh An và gây hậu quả chết người. Hành vi giết người của anh Bình là phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo hướng dẫn tại Điều 125 Bộ luật Hình sự. Theo đó, anh Bình có thể bị phạt tù từ 03 – 07 năm và không bị tử hình.

Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Điều 126 quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội như sau:

– Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

– Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

Trong đó, theo hướng dẫn tại Điều 22, phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của đơn vị, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

Cũng tại Điều 22, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Tóm lại, người thực hiện hành vi giết người chỉ bị tử hình khi phạm tội giết người thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Các trường khác không bị áp dụng hình phạt tử hình.

Trên đây là bài viết mà chúng tôi gửi tới đến Quý bạn đọc về Tội giết người có bị tử hình không? [Cập nhật 2023]. Trong quá trình nghiên cứu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm đến Tội giết người có bị tử hình không? [Cập nhật 2023], quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com