Vấn đề thời gian công tác theo luật định luôn là chủ đề nóng hổi của người lao động quan tâm. Hiện nay người lao động sẽ công tác với thời gian trung bình là 8 tiếng/ngày và nghỉ trưa khoảng 2 tiếng. Với những công việc đặc thù thì người lao động có khoảng thời gian công tác rút ngắn hơn hoặ dài hơn tuỳ vào như cầu của công việc. Nhưng những quy định này chỉ dành cho người lao động đang trong độ tuổi lao động. Vậy những người lao động lớn tuổi ngoài độ tuổi lao động vẫn muốn được tham gia lao động có được rút ngắn thời gian công tác không? Bài viết “Thời giờ công tác rút ngắn đối với người lao động lớn tuổi” của LVN Group ngày hôm nay sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi này.
Văn bản hướng dẫn
- Bộ luật lao động năm 2019
Chính sách chung về thời giờ công tác
Trên thế giới, khi năng suất lao động còn thấp, kéo dài thời gian công tác là biện pháp để chủ tư bản bóc lột sức lao động. Cuộc biểu tình lớn tại Chicago (Mi) ngày 01.5.1886 của giai cấp công nhân đã buộc nhà nước tư sản phải thực hiện ngày công tác 8 giờ. Mức này cũng đã được ghi vào Hiến chương của Tổ chức lao động quốc tế () và tổ chức này cũng có nhiều công ước về thời giờ công tác, giảm thời giờ công tác…
Ở Việt Nam, chế độ ngày công tác 8 giờ được Nhà nước ghi nhận từ sau Cách mạng tháng Tắm. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, định mức về thời giờ công tác do Nhà nước quy định cụ thể. Hiện nay, Nhà nước chỉ định khung tối đa về thời giờ công tác để khuyến khích những thoả thuận giảm thời giờ công tác cho người lao động. Thời giờ công tác được tính hằng độ dài của ngày, tuần công tác, tối đa không quá 8 giờ/ngày hoặc 48 giờ/tuần. Mức này được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với các lao động làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc cho một số lao động đặc thù (lao động trẻ em, lao động tàn tật, lao động nữ trong những thời kì đặc biệt…).
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận làm thêm giờ nhưng không được quá bốn giờ trong một ngày, 200 giờ trong một năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ trong một năm do Chính phủ quy định sau khi cân nhắc ý kiến của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và uỷ quyền của người sử dụng lao động.
Thời giờ công tác ban đêm tính từ 22 giờ đến 6 giờ hoặc từ 21 giờ đến 5 giờ, tuỳ theo vùng khí hậu do Chính phủ quy định.
Quy định về thời gian công tác
Trong khoa học kinh tế lao động, thời giờ công tác, thời giờ nghỉ ngơi được xem xét chủ yếu dưới góc độ của việc tổ chức quá trình lao động với việc đặt trong mối quan hệ hữu cơ với năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động. Theo đó, thời giờ công tác chính là khoảng thời gian cần và đủ để người lao động hoàn thành định mức lao động hoặc khối lượng công việc đã được giao. Còn thời giờ nghỉ ngơi là khoảng thời gian cần thiết để người lao động tái sản xuất sức lao động đã hao phí nhằm đảm bảo quá trình lao động được diễn ra liên tục.
Trong khoa học luật lao động, thời giờ công tác, thời giờ nghỉ ngơi được xem xét như là một chế định của luật lao động, thể hiện nguyên tắc bảo vệ người lao động. Thời giờ công tác được hiểu là khoảng thời gian do pháp luật quy định, theo đó, người lao động phải có mặt tại địa điểm công tác và thực hiện những nhiệm vụ được giao phù hợp với nội quy lao động của đơn vị, điều lệ doanh nghiệp và hợp đồng lao động. Thời giờ nghỉ ngơi là thời gian người lao động không phải thực hiện nghĩa vụ lao động và có quyền sử dụng thời gian này theo ý mình.
Điều 104 “Bộ luật lao động 2019” quy định về thời gian công tác bình thường như sau:
“1. Thời giờ công tác bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ trong 01 tuần.
2. Người sử dụng lao động có quyền quy định công tác theo giờ hoặc ngày hoặc tuần; trường hợp theo tuần thì thời giờ công tác bình thường không quá 10 giờ trong 01 ngày, nhưng không quá 48 giờ trong 01 tuần .
Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần công tác 40 giờ.
3. Thời giờ công tác không quá 06 giờ trong 01 ngày đối với những người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.”
Thời giờ công tác rút ngắn đối với người lao động lớn tuổi
Hiện nay quy định về thời giờ công tác của người lao động cao tuổi liệu có được ưu tiên gì so với người bình thường không? Thông thường thì điều kiện về tuổi tác, sức khỏe của người lao động cao tuổi sẽ không thể nào tốt được như người trẻ. Hiện nay đã có quy định về vấn đề quy định rút ngắn thời gian công tác cho người cao tuổi. Quy định rút ngắn thời gian công tác cho người cao tuổi tạo điều kiện để họ được công tác trong môi trường phù hợp. Đó chính là sự phù hợp với tính chất công việc, tuổi tác và kinh nghiệm đã có. Căn cứ chúng tôi xin được cung cấp thông tin về những quy định rút ngắn thời gian công tác cho người cao tuổi như sau:
Khoản 10, Điều 3 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP quy định: “thời giờ công tác được rút ngắn mỗi ngày ít nhất 01 giờ đối với người lao động cao tuổi trong năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu” được tính vào thời giờ công tác được hưởng lương.
Theo như ông trình bày tại câu hỏi, người lao động sinh ngày 5/7/1955 đã làm thủ tục nghỉ hưu vào ngày 31/7/2015 (nghỉ hưu đúng tuổi), sau đó tiếp tục ký thêm hợp đồng lao động. Thời gian từ ngày 31/7/2015 về trước thì người lao động này không phải lao động cao tuổi nên không phải đối tượng quy định tại khoản 10, Điều 3 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP.
Thời gian từ ngày 1/8/2015 thì người lao động này là người lao động đã nghỉ hưu nên cũng không phải đối tượng khoản 10, Điều 3 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP nêu trên, nhưng là người lao động cao tuổi, nếu ký hợp đồng tiếp thì “được rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày hoặc được áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian” theo hướng dẫn khoản 2 Điều 166 Bộ luật Lao động.
Hiện nay đã có quy định về vấn đề quy định rút ngắn thời gian công tác cho người cao tuổi. Quy định rút ngắn thời gian công tác cho người cao tuổi tạo điều kiện để họ được công tác trong môi trường phù hợp. Đó chính là sự phù hợp với tính chất công việc, tuổi tác và kinh nghiệm đã có. Căn cứ chúng tôi xin được cung cấp thông tin về những quy định rút ngắn thời gian công tác cho người cao tuổi như sau:
Ngày 01/01/2021, khi Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 có hiệu lực, nhiều quy định liên quan đến người lao động cao tuổi sẽ có sự thay đổi.
– Ai là người lao động cao tuổi?
Người cao tuổi được ghi nhận trong Luật người cao tuổi 2009 là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
Cùng với đó, BLLĐ năm 2012 quy định người lao động cao tuổi là người tiếp tục lao động sau độ tuổi nghỉ hưu là 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ.
Tuy nhiên, quy định này đã có sự thay đổi tại khoản 1 Điều 148 BLLĐ năm 2019. Theo đó, người lao động cao tuổi là người tiếp tục lao động sau độ tuổi nghỉ hưu của người lao động công tác trong điều kiện bình thường là đủ 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi với nữ vào năm 2035.
Từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng với nam và đủ 55 tuổi 04 tháng với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với nam và 04 tháng đối với nữ.
– Từ 2021, lao động cao tuổi có còn được rút ngắn thời giờ công tác?
Khoản 2 Điều 166 BLLĐ năm 2012 đang được áp dụng hiện nay ghi nhận:
Người lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày hoặc được áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 148 BLLĐ năm 2019 quy định:
Người lao động cao tuổi có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày hoặc áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian.
Có thể thấy, thay vì được áp dụng rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày hoặc chế độ công tác không trọn thời gian như hiện nay, từ năm 2021, người lao động cao tuổi phải thỏa thuận với người sử dụng lao động để được áp dụng một trong hai cách trên. Việc áp dụng chế độ nào cũng đều cần có sự đồng ý giữa các bên.
Mặt khác, BLLĐ năm 2019 cũng đã bãi bỏ quy định tại khoản 3 Điều 166 BLLĐ năm 2012. Theo đó, người lao động không còn được rút ngắn thời giờ công tác bình thường hoặc được áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian trong năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu.
Thay vào đó, khoản 3 Điều 148 BLLĐ năm 2019 khuyến khích sử dụng người lao động cao tuổi công tác phù hợp với sức khỏe để bảo đảm quyền lao động và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
Vì vậy, từ ngày 01/01/2021, khi BLLĐ năm 2019 có hiệu lực, người lao động cao tuổi muốn rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày phải được sự đồng ý của người sử dụng lao động.
Mời bạn xem thêm
- Tra cứu tiền bảo hiểm thai sản cho người lao động năm 2023
- Thủ tục khởi kiện công ty không trả lương cho người lao động
- Mẫu giấy xin phép nghỉ ốm dành cho người lao động
Kiến nghị
Với phương châm “Đưa LVN Group đến ngay tầm tay bạn”, LVN Group sẽ cung cấp dịch vụ tư vấn luật lao động tới quý khách hàng. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý chuyên nghiệp, chúng tôi sẽ hỗ trợ khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào.
Liên hệ ngay:
Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Thời giờ công tác rút ngắn đối với người lao động lớn tuổi“. Hy vọng bài viết có ích cho bạn đọc, LVN Group với đội ngũ LVN Group, chuyên gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như soạn thảo đơn xin hợp thửa đất. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi câu hỏi của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 1900.0191
Giải đáp có liên quan
Hiện nay có nhiều công việc mà môi trường công tác đặc thù. Chính vì vậy mà việc người lao động cũng cần có thời gian phải làm thêm giờ. Vậy đối với người lao động cao tuổi thì họ có bắt buộc phảo làm thêm giờ được không? sử dụng người lao động cao tuổi làm thêm giờ có vi phạm luật được không? Chúng tôi xin được tư vấn cho bạn như sau:
BLLĐ năm 2012 cũng như BLLĐ năm 2019 đều không quy định về việc không được bố trí người lao động cao tuổi làm thêm giờ. Tuy nhiên, việc sử dụng lao động làm thêm giờ cũng cần đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 107 BLLĐ năm 2019:
Phải được sự đồng ý của người lao động;
Bảo đảm số giờ làm thêm không quá 50% số giờ công tác bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng thời giờ công tác theo tuần thì tổng số giờ công tác bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày; không quá 40 giờ/tháng;
Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ/năm với công việc bình thường, không quá 300 giờ/năm với một số công việc như: Sản xuất, gia công xuất khẩu hàng dệt, may, điện tử; sản xuất, cung cấp điện, viễn thông; cấp, thoát nước….
Vì vậy, người sử dụng lao động được phép sử dụng lao động cao tuổi làm thêm giờ nếu như người lao động đồng ý đồng thời phải đảm bảo được điều kiện về số giờ làm thêm.
Trên đây là những phân tích về các quy định liên quan đến giờ công tác đối với người lao động cao tuổi được thực hiện từ ngày 01/01/2021.
Theo Điều 148 Bộ luật lao động 2019 (có hiệu lực 1/1/2021) quy định về người lao động cao tuổi như sau:
– Người lao động cao tuổi là người tiếp tục lao động sau độ tuổi theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật này.
– Người lao động cao tuổi có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày hoặc áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian.
– Nhà nước khuyến khích sử dụng người lao động cao tuổi công tác phù hợp với sức khỏe để bảo đảm quyền lao động và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
Vì vậy, từ năm sau theo Bộ luật lao động 2019 đã bãi bỏ quy định về năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu, người lao động được rút ngắn thời giờ công tác bình thường hoặc được áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian mà thay vào đó Nhà nước khuyến khích sử dụng lao động cao tuổi công tác phù hợp với sức khỏe của mình.
Do đó, hiện tại theo hướng dẫn mới thì không có quy định rút ngắn thời giờ công tác hàng ngày đối với NLĐ cao tuổi trong năm cuối cùng về hưu. Nên bố bạn có thể thỏa thuận với doanh nghiệp về vấn đề này, nếu doanh nghiệp đồng ý thì bố bạn có thể rút ngắn được thời giờ công tác hàng ngày.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 148 Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động cao tuổi có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc rút ngắn thời giờ công tác hằng ngày hoặc áp dụng chế độ công tác không trọn thời gian.
Vì vậy, với quy định nêu trên sẽ bảo đảm an toàn về sức khỏe cho người lao động cao tuổi trong quá trình công tác.