Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo Bộ luật dân sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo Bộ luật dân sự

Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo Bộ luật dân sự

Pháp luật dân sự luôn tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ dân sự. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo được tính cân bằng cũng như bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của các bên, thì pháp luật có những quy định rất rõ ràng về trách nhiệm dân sự của các bên khi vi phạm nghĩa vụ. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ gửi tới các thông tin về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự.

1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ

Trong quan hệ dân sự, quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia, để đảm bảo quyền lợi cho bên được hưởng quyền thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến thời hạn. Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không trọn vẹn thì sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mà pháp luật dân sự đã dự liệu.

Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không trọn vẹn nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.
Vì vậy, các bên có nghĩa vụ dân sự đối với nhau kể từ khi quan hệ nghĩa vụ được xác lập nhưng trách nhiệm dân sự chỉ xuất hiện khi có một bên không thực hiện, thực hiện không đúng, không trọn vẹn nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là một trong những loại trách nhiệm pháp lý nói chung nên nó mang những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý như: (i) Chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó; (ii) Là một cách thức cưỡng chế của Nhà nước và do đơn vị nhà nước có thẩm quyền áp dụng; (iii) Luôn mang đến một hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài những đặc điểm đã nêu trên, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ còn có những đặc điểm riêng biệt:
– Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm pháp luật trong trách nhiệm dân sự là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không trọn vẹn nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự;
– Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ bao giờ cũng liên quan trực tiếp với tài sản. Lợi ích mà các bên hướng tới trong các quan hệ nghĩa vụ dân sự bao giờ cũng mang tính chất tài sản, vì vậy, việc vi phạm nghĩa vụ của bên này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Do đó, trách nhiệm dân sự của người vi phạm là phải bù đắp cho bên bị vi phạm những lợi ích vật chất;
– Trách nhiệm dân sự được áp dụng với người có hành vi vi phạm nhưng cũng có thể được áp dụng đối với người khác (người uỷ quyền cho người chưa thành niên);
– Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu là việc bắt buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường tổn hại nhằm để thỏa mãn quyền lợi chính đáng và khôi phục, khắc phục những hậu quả vật chất cho người bị vi phạm.
Vì thế, về mặt khách quan: Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ phát sinh giữa các chủ thể đang tham gia với nhau một quan hệ dân sự mà khi bên có nghĩa vụ dân sự vi phạm nghĩa vụ đó. Về mặt chủ quan: Trách nhiệm dân sự được hiểu là việc phải gánh chịu một hậu quả mang tính tài sản của bên vi phạm nghĩa vụ nhằm mục đích khắc phục hậu quả cho bên bị vi phạm (bên có quyền), ví dụ như phải giao vật hay phải bồi thường tổn hại…
Có thể nói, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự là sự cưỡng chế của Nhà nước buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ hoặc phải bồi thường tổn hại do hành vi vi phạm của mình gây ra cho phía bên kia (người có quyền). Trách nhiệm dân sự nói chung là một hình phạt của ngành luật dân sự và trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là một hình phạt trong nghĩa vụ dân sự. Đối với các chủ thể tham gia một quan hệ nghĩa vụ, bên cạnh việc các bên tự giác thực hiện nghĩa vụ, pháp luật còn đặt ra các biện pháp cưỡng chế nhằm tác động đến ý thức tự giác của các chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời cũng là căn cứ để áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ dân sự.

2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ

Tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không trọn vẹn nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.”

Từ đó có thể hiểu trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ chính là trách nhiệm pháp lý do Tòa án hoặc chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không trọn vẹn nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ theo các giao dịch dân sự đã được xác lập trước đó. Trách nhiệm dân sự đặt ra buộc các chủ thể vi phạm nghĩa vụ phải bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị tổn hại.

Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ đặt ra trách nhiệm buộc  phải thực hiện thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm bồi thường tổn hại.

2.1.  Trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ 

Về trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ, thì khi một bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ của giao dịch dân sự, loại trách nhiệm dân sự đầu tiên mà các bên thường lựa chọn để áp dụng đó là buộc thực hiện nghĩa vụ. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thì buộc thực hiện nghĩa vụ có thể được thực hiện thông qua hành vi như buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, buộc thực hiện đúng nghĩa vụ giao vật; buộc thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng, …

Về trách nhiệm buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, thì Điều 352 quy định” “Khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.”. Vì vậy, bên còn lại có quyền yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bị vi phạm theo như thỏa thuận của các bên trước đó.

Về trách nhiệm do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ giao vật. Thứ nhất, không thực hiện nghĩa vụ giao vật được hiểu là bên có nghĩa vụ chuyển giao vật là đối tượng của giao dịch dân sự đã không chuyển giao vật cho bên có quyền khi thời hạn chuyển giao trong hợp đồng đã hết. Khi này đặt ra trách nhiệm đối với chủ thể vi phạm theo hướng dẫn tại Điều 356 Bộ luật dân sự năm 2015.

Thứ hai, thực hiện không đúng nghĩa vụ chuyển giao vật được hiểu là việc bên có nghĩa vụ chuyển giao vật đã thực hiện việc giao vật không đúng chất lượng; giao vật không đúng thời hạn; giao vật sai địa điểm thực hiện nghĩa vụ; giao vật không đúng phương thức; giao vật không đúng số lượng; không giao đúng vật đồng bộ; giao vật không đúng chủng loại theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng,… Thực hiện không đúng nghĩa vụ cũng được coi là vi phạm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền.

Trong một giao dịch dân sự, nếu các bên có thỏa thuận về thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn đó. Bên có nghĩa vụ sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ nếu thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn đã thỏa thuận.

Về trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện một cộng việc hoặc không được thực hiện một công việc. Đối tượng nghĩa vụ dân sự gồm ba loại: tài sản; công việc phải thực hiện và công việc không được thực hiện.

Khi các bên đã thỏa thuận đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đó thì bên có nghĩa vụ sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền. Trách nhiệm này được quy định tại Khoản 1 Điều 358 : “1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường tổn hại.”

Theo quy định này thì bên có quyền có thể lựa chọn thực hiện một trong ba hành vi: yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện công việc và bồi thường tổn hại; tự mình thực hiện công việc và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý cho việc thực hiện và bồi thường tổn hại hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý cho việc thực hiện và bồi thường tổn hại.

Trường hợp các bên đã thỏa thuận đối tượng của hợp đồng là công việc không được thực hiện mà bên có nghĩa vụ lại thực hiện công việc đó thì cũng chính là sự vi phạm nghĩa vụ. Trách nhiệm dân sự được quy định tại Khoản 2 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự bị chậm thực hiện, bên chậm thực hiện có nghĩa vụ phải thông báo cho bên có quyền biết về việc không thực hiện đúng nghĩa vụ theo thời hạn quy định trước đó (Khoản 2 Điều 353). Việc thông báo phải nhanh chóng và kịp thời để đảm bảo cho bên có quyền có các biện pháp xử lý nhằm giảm thiểu những rủi ro do việc chậm thực hiện nghĩa vụ gây ra. Khi này bên có quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ thực hiện tiếp nghĩa vụ đã cam kết trước đó.

Trong quan hệ dân sự, khi bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì cũng bị coi là hành vi vi phạm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm dân sự theo hướng dẫn tại Điều 355 Bộ luật dân sự năm 2015. Khi bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nhưng được pháp luật bảo đảm một số quyền lợi. Nếu việc chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ của bên có quyền dấn đến bên có nghĩa vụ bị tổn hại thì bên có quyền có trách nhiệm bồi thường tổn hại.

2.2. Trách nhiệm bồi thường tổn hại

Khi một bên trong quan hệ hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng và gây tổn hại cho bên kia là căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại. Trách nhiệm bồi thường tổn hại do vi phạm nghĩa vụ là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ giao dịch dân sự và gây tổn hại cho bên bị vi phạm nhằm bù đắp những tổn thất cả về vật chất và tinh thần cho bên bị vi phạm.

Tại Điều 360 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường như sau:

“Điều 360. Trách nhiệm bồi thường tổn hại do vi phạm nghĩa vụ

Trường hợp có tổn hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ tổn hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”

Trách nhiệm bồi thường tổn hại phát sinh khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dẫn đến tổn hại cho bên kia, dù các bên không có thỏa thuận thì trách nhiệm bồi thường vẫn đặt ra. Thiệt hại được xác định ở đây bao gồm cả tổn hại về vật chất và tổn hại về tinh thần được xác định theo hướng dẫn tại Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trên đây là nội dung trình bày về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo Bộ luật dân sự . Công ty Luật LVN Group tự hào là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến pháp lý, tư vấn pháp luật, thủ tục giấy tờ cho khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp trên Toàn quốc với hệ thống văn phòng tại các thành phố lớn và đội ngũ cộng tác viên trên tất cả các tỉnh thành: Hà Nội, TP. HCM, Bình Dương, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng và Đồng Nai… Liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com