Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 BLHS 2015 với 03 khung hình phạt (nhẹ nhất là 01 năm tù và nghiêm khắc nhất là 15 năm tù) và kèm theo hình phạt bổ sung.
BLHS năm 2015 quy định Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điều 145 với 04 khoản gồm 03 khung hình phạt và quy định hình phạt bổ sung trong đó hình phạt chính nhẹ nhất là 01 năm và nghiêm khắc nhất là 15 năm hình phạt tù có thời hạn. Có thể thấy khung hình phạt chính rải rất rộng, do vậy cần xem xét từng khoản để thấy rõ đường lối xử lý hình sự của nhà nước đối với từng mức độ hành vi.
1. Khung hình phạt thứ nhất: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
Được xác định là cấu thành cơ bản của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Khoản 1 Điều 145 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Như vậy, hình phạt ở khoản 1 được quy định là “phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” nhẹ hơn so với khoản 2 và khoản 3 của cùng điều luật với tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm được xác định thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Ngoài ra, khoản 1 cũng những dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này làm căn cứ định tội danh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử – đây là cơ sở nền tảng bổ sung các cấu thành tăng nặng ở khoản 2 và khoản 3 của điều luật này.
2. Khung hình phạt thứ hai: bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
Người phạm tội giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác đối với trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
– Tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm a Khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015
Phạm tội hai lần trở lên là “trường hợp phạm tội mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất là một lần và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lặp lại tội đã phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường”.
Như vậy, tính nguy hiểm trong trường hợp này thể hiện thông qua việc người phạm tội đã thực hiện hành vi tội phạm nhiều lần, đối tượng tác động có thể là một người hoặc nhiều đối tượng khác nhau (mỗi lần xâm hại một đối tượng khác nhau và xét về cấu trúc, các hành vi riêng lẻ này đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Các hành vi riêng lẻ đó xâm phạm cùng một khách thể và được quy định tại một điều luật cụ thể; mặt khác, các hành vi phạm tội trước đó chưa bị truy cứu TNHS bởi một cơ quan THTT có thẩm quyền.
Trong trường hợp cụ thể phạm tội 02 lần đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được xác định là trường hợp người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác đối với trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đã thực hiện hành vi này một lần trở lên trước đó, các hành vi này đều đủ yếu tố xác định chủ thể của hành vi là người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tuy nhiên chưa bị xem xét TNHS bởi cơ quan THTT hoặc có thẩm quyền trong một số hoạt động tố tụng. Để đảm bảo yêu cầu trên, người thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với đối tượng trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phải tối thiểu đủ 18 tuổi trong lần quan hệ trước đó. Ví dụ: trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với đối tượng trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 02 lần tuy nhiên 01 lần trước đó là chưa đủ 18 tuổi thì không xem xét tình tiết định khung tăng nặng này. Ngoài ra, người phạm tội giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với đối tượng trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đã từng thực hiện một tội phạm khác trước đó cũng không xem xét tình tiết này.
Tình tiết phạm tội “đối với 02 người trở lên” tại điểm b Khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015
Phạm tội đối với 02 người trở lên được hiểu là người phạm tội đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục (bao gồm giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác) với ít nhất 02 đối tượng từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trong một lần thực hiện hành vi phạm tội. Điều này có thể được xem xét ở những dấu hiệu khác trong mặt khách quan như thời gian và địa điểm. Việc thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với 02 người (trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) trở lên có thể được xem xét trong trường hợp:
+ Cùng lúc thực hiện hành vi giao cấu với một đối tượng và hành vi quan hệ tình dục khác (ví dụ như dùng ngón tay, ngón chân, lưỡi… dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục hoặc hậu môn nữ) với đối tượng còn lại.
+ Người phạm tội thực hiện hành vi xâm nhập trực tiếp đưa bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ với nhiều đối tượng liên tục về mặt thời gian và thông thường là cùng địa điểm (ví dụ như trong trường hợp quan hệ tập thể).
– Tình tiết “có tính chất loạn luân” tại điểm c Khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015
Tình tiết định khung “có tính chất loạn luân” được hướng dẫn áp dụng tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của HĐTP TANDTC với các trường hợp phạm tội có tính chất loạn luân bao gồm:
Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu ruột; đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi; đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế; đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.
Như vậy người phạm tội và bị hại (là trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi) được xác định là có quan hệ huyết thống và chung dòng máu trực hệ. Hành vi này ngoài xâm hại an toàn tình dục, sự phát triển bình thường về sức khỏe và ổn định về tâm lý còn tác động nghiêm trọng đến đạo đức xã hội, truyền thống văn hoá, gây rối loạn quan hệ gia đình, hạnh phúc đổ vỡ. Việc đảm bảo tính nghiêm khắc của hình phạt đối với hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có tính chất loạn luân là vô cùng cần thiết và là cơ sở phù hợp đảm bảo sự ổn định của đạo đức xã hội.
– Tình tiết “làm nạn nhân có thai” tại điểm d Khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015
Không thể phủ nhận hậu quả xã hội do có thai ngoài ý muốn ở độ tuổi quá nhỏ là vô cùng lớn. Nó trực tiếp ảnh hưởng đến người mẹ (ví dụ như phải bỏ học giữa chừng để nuôi con) và đứa trẻ (có thể phát triển thiếu sót do những hạn chế về mặt nhận thức cũng như sức khỏe từ phía người mẹ – thiệt thòi về mọi mặt) mặt khác làm gánh nặng cho gia đình, đặc biệt trong trường hợp chất lượng đời sống kinh tế gia đình hạn chế. Trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mặc dù đã có thể có khả năng sinh sản và mang thai, tuy nhiên các chức năng sinh sản vẫn chưa phát triển hoàn thiện và ổn định. Do vậy việc mang thai ở độ tuổi này không đảm bảo an toàn cho cả người mẹ và thai nhi; mặt khác đây có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới các bệnh lý liên quan đến sức khỏe sinh sản sau này. Do vậy, quy định tình tiết “làm nạn nhân có thai” này là hết sức thiết thực đảm bảo chức năng bảo vệ của pháp luật nói chung và của BLHS nói riêng.
Cần lưu ý, khi xác định tình tiết làm nạn nhân có thai cần xác định quan hệ nhân quả liên quan đến hành vi khách quan trọng cấu thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong trường hợp nạn nhân thực sự mang thai tuy nhiên việc có thai xuất phát từ một lần quan hệ tình dục khác thì cần xem xét tình tiết này với đúng chủ thể. Hay trong trường hợp người phạm tội và nạn nhân giao cấu nhiều lần với nhau (có những lần khi nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, có những lần hơn 16 tuổi) và việc có thai là kết quả do lần quan hệ khi nạn nhân đã từ đủ 16 tuổi trở lên thì không xem xét tình tiết này.
– Tình tiết “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%” tại điểm đ Khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015.
Tình tiết “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%” thực tế đã được quy định nhiều ở các chương xiv về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Trong một số tội còn được coi là tình tiết định tội cụ thể tại Điều 135, Điều 136, Điều 137 BLHS năm 2015. Việc xác định tỷ lệ thương tổn được tiến hành toàn diện trên cơ sở Thông tư 22/2019/TT-BYT quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần và được thực hiện bởi các cơ quan chuyên môn.
Tuy nhiên, xuất phát từ tính hành vi khách quan trọng tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ít có tính bạo lực (do nạn nhân thuận tình); vì vậy các tổn hại sức khỏe người phạm tội có thể gây ra cho nạn nhân ngoài những biểu hiện thông thường thì tập trung nhiều hơn vào các cơ quan sinh dục (như: vú, tử cung, ..) với các mức độ thương tổn khác nhau, ví dụ như các tổn thương tử cung với mức độ từ thấp đến cao: tổn thương thành tử cung nhưng chưa thủng, không có di chứng; Thủng tử cung, điều trị phẫu thuật không có di chứng; Tổn thương tử cung có di chứng (dính buồng tử cung…); Cắt tử cung bán phần; Cắt tử cung hoàn toàn.
– Tình tiết “đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” tại điểm e Khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015
Người phạm tội và nạn nhân trong trường hợp này có mối quan hệ ràng buộc về mặt nghĩa vụ, trách nhiệm. Điều này có thể xuất phát từ các hoạt động cụ thể trong đời sống và sự liên quan tới nhau của cả hai ví dụ như trong quan hệ thầy trò hay quan hệ chữa bệnh, …
Cần lưu ý khi xem xét tình tiết này trong quá trình định khung là tình tiết này chỉ xuất hiện trong trường hợp người phạm tội ngoài việc có trách nhiệm như đã nêu thì họ đã thông qua việc lợi dụng sự chăm sóc, giáo dục hoặc chữa bệnh để thuận tình giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong trường hợp nếu hành vi quan hệ tình dục không liên quan đến việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì không xem xét sử dụng tình tiết này, ví dụ trong trường hợp thầy giáo và học sinh thực sự có quan hệ yêu đương.
3. Khung hình phạt thứ hai: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
Người phạm tội giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác đối với trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
– Tình tiết phạm tội “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên” tại điểm a Khoản 3 Điều 145 BLHS năm 2015
Về cơ bản tình tiết này được xác định trên cơ sở tương tự tình tiết quy định tại điểm đ Khoản 2 và theo Thông tư 22/2019/TT-BYT quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần và được thực hiện bởi các cơ quan chuyên môn; tuy nhiên về định lượng mức độ thương tổn là nghiêm trọng hơn do vậy cần thiết phải có mức nghiêm khắc cao hơn trong quyết định hình phạt để đảm bảo tính phù hợp giữa tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hình phạt.
Trong quá trình xem xét áp dụng tình tiết này cũng cần chú ý đến mối quan hệ nhân quả của thương tổn gây ra với hành vi phạm tội tương tự như ở điểm đ Khoản 2.
– Tình tiết phạm tội “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” tại điểm b Khoản 3 Điều 145 BLHS năm 2015
Đây rõ ràng là một hành vi mang tính chất vô cùng nghiêm trọng, bởi HIV là căn bệnh nguy hiểm chưa có thuốc chữa, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý và tính mạng của trẻ. Tình tiết này được xác định dựa trên 02 căn cứ chính: (1) Ý chí chủ quan của người phạm tội, biết rõ tình trạng sức khỏe nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi giao cấu; (2) Kết quả xét nghiệm và giám định của cơ quan chuyên môn.
4. Hình phạt bổ sung:
Khoản 4 Điều 145 BLHS năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Hình phạt bổ sung được hiểu là “Biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được BLHS quy định, do Tòa án áp dụng bổ sung cho hình phạt chính trong bản án kết tội đối với người bị kết án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích nhất định của họ nhằm củng cố, tăng cường
hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm”. Theo đó, hình phạt bổ sung không áp dụng một cách độc lập và áp dụng bổ sung cho hình phạt chính nhằm củng cố tăng cường tính hiệu quả của hình phạt chính. Tòa có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung hoặc không trong các trường hợp cụ thể.
Hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng sau khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt chính. Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo (Điều 41 BLHS năm 2015).