Hiện nay, các vấn đề liên quan đến tài phán quốc tế đang rất được mọi người quan tâm và đặc biệt chú trọng. Bởi lẽ, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quốc gia cũng như mối quan hệ với các quốc gia khác trên thế giới. Vậy, thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế? Hãy cùng theo dõi nội dung trình bày bên dưới của LVN Group để được trả lời câu hỏi và biết thêm thông tin chi tiết về thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế.
Thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế
1. Thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế
Thắc mắc thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế được trả lời như sau:
Luật hình sự quốc tế quy định thẩm quyền xét xử (tài phán): Trong Luật hình sự quốc tế, việc quy định thẩm quyền xét xử đối với các hành vi phạm tội đã được quy định tương đối cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như: tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và cộng đồng quốc tế, phạm vi gây nguy hiểm cho một hay nhiều quốc gia hay toàn cầu; v.v…
Tội phạm khi thực hiện gây nguy hại cho xã hội, cho hòa bình và an ninh của nhân loại và xâm phạm quyền con người thì thường được xét xử theo các cấp độ khác nhau. Đối với tội phạm quốc tế, việc xét xử được tiến hành tại Tòa án quốc tế như (Tòa án quốc tế Nurrumbe, Tôkyô, Tòa án hình sự quốc tế về Ruanđa và Nam Tư cũ, Tòa án hình sự quốc tế theo Quy chế Rome năm 1998) vì tính nguy hiểm đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm quốc tế gây ra cho cộng đồng quốc tế.
Về cơ bản, như đã đề cập tội phạm quốc tế có thể bao gồm các nhóm chính sau: Tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội phạm chống loài người và tội xâm phạm hòa bình. Tất cả các tội phạm quốc tế này đã được cộng đồng quốc tế liệt kê các hành vi phạm tội cụ thể, đồng thời chúng đều đi ngược lại các chuẩn mực chung của pháp luật, quy tắc chung của đời sống pháp lý quốc tế, cũng như nguyên tắc nhân đạo trong luật quốc tế, xâm phạm đến các chuẩn mực hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và Nhà nước, đặc biệt các tội phạm này đã xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, quyền dân tộc và quyền con người. Chính vì lẽ đó, nhân loại và cộng đồng quốc tế đã đánh giá cao vai trò của các Tòa án có thẩm quyền xét xử các loại tội phạm này và gọi chung là Tòa án hình sự quốc tế. Về thẩm quyền xét xử/tài phán của Tòa án hình sự quốc tế (gọi tắt là ICC) theo Quy chế Rome năm 1998 được đề cập với các quy định như sau:
Thứ nhất, các tội phạm của thẩm quyền xét xử (tài phán) của ICC bao gồm: tội ác chiến tranh, tội diệt chủng, tội chống loài người và tội xâm lược. Đây là các tội phạm gây sự lo ngại và nguy hiểm nhất cho cộng đồng quốc tế. Quy chế Rome cũng đã ghi nhận định nghĩa và quy định cụ thể các yếu tố cụ thể của những loại tội phạm này, đồng thời ghi nhận các hành vi phạm tội cụ thể (ví dụ: quy định 05 hành vi cấu thành tội diệt chủng, 11 hành vi cấu thành tội chống loài người, 50 hành vi cấu thành tội phạm chiến tranh; v.v…).
Thứ hai, Điều 12 Quy chế quy định điều kiện thực hiện quyền tài phán, thẩm quyền theo lãnh thổ và quyền tài phán đương nhiên. Theo đó, quốc gia trở thành thành viên của Quy chế này thì cũng chấp nhận quyền tài phán của Tòa án đối với các tội phạm nêu tại Điều 5. Trong trường hợp quy định tại khoản a hoặc c Điều 13, Tòa án có thể thực hiện quyền tài phán nếu một hoặc nhiều quốc gia sau là thành viên của Quy chế này hoặc đã chấp nhận quyền tài phán của Tòa án theo hướng dẫn tại khoản 3: 1) Quốc gia mà trên lãnh thổ có tội phạm xảy ra hoặc quốc gia nơi đăng ký tàu thuyền hoặc tàu bay, nếu tội phạm được thực hiện trên tàu thuyền hay tàu bay; 2) Quốc gia mà người bị buộc tội là công dân. Vì vậy, thẩm quyền theo lãnh thổ của ICC được Quy chế quy định một cách tương đối mở rộng, phục vụ Tòa án thực hiện tốt quyền tài phán của mình.
Thứ ba, điều kiện để thực hiện thẩm quyền tài phán của ICC cũng được quy định cụ thể trong Quy chế. Theo đó, căn cứ quy định tại đoạn 10 của Lời nói đầu và Điều 1, Tòa án quyết định không thụ lý vụ việc nếu: 1) Vụ việc đang được một quốc gia có quyền tài phán điều tra hoặc truy tố, trừ khi quốc gia đó không muốn hoặc không đủ khả năng tiến hành điều tra hoặc truy tố một cách thực sự; 2) Vụ việc đã được một quốc gia có quyền tài phán điều tra và quốc gia này đã quyết định không truy tố cá nhân liên quan, trừ khi quyết định đó xuất phát từ việc quốc gia này không muốn hoặc không đủ khả năng truy tố một cách thực sự; 3) Cá nhân liên quan đã bị xét xử về chính hành vi nêu trong đơn khiếu nại và Tòa án không được phép xét xử theo hướng dẫn tại Điều 20 khoản 3; 4) Vụ việc không đủ mức nghiêm trọng cần Tòa án giải quyết.
Do đó, để xác định việc một quốc gia không muốn điều tra, truy tố trong một trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ căn cứ vào các nguyên tắc tố tụng được thừa nhận trong luật quốc tế, xem xét có tồn tại một hoặc những yếu tố sau được không: 1) Thủ tục tố tụng đã hoặc đang được tiến hành hoặc quyết định của các đơn vị có thẩm quyền của quốc gia đó là nhằm bao che cho cá nhân liên quan khỏi trách nhiệm hình sự về những tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án tại Điều 5; 2) Có sự trì hoãn vô lý trong việc tiến hành thủ tục tố tụng, trái với mục đích đưa cá nhân liên quan ra trước công lý; 3) Thủ tục tố tụng đã hoặc đang không được tiến hành độc lập hoặc công bằng hay đã hoặc đang được tiến hành theo cách thức trái với mục đích đưa cá nhân liên quan ra trước công lý.
Bên cạnh đó, để xác định việc một quốc gia không có khả năng điều tra, truy tố trong một trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ xem xét có phải do hệ thống tư pháp quốc gia bị sụp đổ hoàn toàn hay phần lớn hoặc do không có hệ thống tư pháp mà quốc gia đó không thể bắt giữ được người bị buộc tội hoặc thu thập được các chứng cứ và lời khai cần thiết hoặc không thể tiến hành tố tụng được được không. Vì vậy, việc xác định đúng quyền tài phán của ICC và các điều kiện thực hiện các quyền đó chính là bảo đảm sự “phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, tôn trọng chủ quyền quốc gia… bảo đảm cho ICC hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. Điều đó cũng hạn chế được nguy cơ sử dụng ICC làm công cụ của quốc gia, tổ chức hoặc cá nhân vì mục đích chính trị
Khác với tội phạm quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế lại không phải là đối tượng trực tiếp được giải quyết tại Tòa án hình sự quốc tế, mà lại thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án trong luật quốc gia, đồng thời các phán quyết được thi hành theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, các yêu cầu bắt buộc là khi quốc gia tiến hành xét xử phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, các điều ước, hiệp ước quốc tế mà các quốc gia đã tham gia ký kết. Nội dung và các nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán đối với các tội phạm có tính chất quốc tế đã được các quốc gia thành viên thống nhất và thông qua. Mỗi một lĩnh vực tương ứng đều có các điều ước, hiệp ước quốc tế ký kết giữa các thành viên để ngăn chặnvà xử lý các hành vi phạm tội. Các Công ước đã liệt kê ở trên là chứng minh cho điều này và thẩm quyền tài phán cũng đã được liệt kê cụ thể trong các Công ước tương ứng đó.
Tóm lại, hiện nay để có cơ sở pháp lý chặt chẽ và trọn vẹn xử lý các tội phạm có tính chất quốc tế, cũng như nâng cao sự hợp tác của cộng đồng quốc tế trong việc truy cứu và đưa ra xử lý các hành vi phạm tội đòi hỏi các quốc gia cần soạn thảo và tham gia ban hành, ký kết nhiều Công ước, hiệp ước để có cơ sở pháp lý bổ sung cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự và thiết lập quyền tài phán của quốc gia, đồng thời còn thể hiện nội dung: việc giữ gìn, tôn trọng và bảo vệ hòa bình, an ninh nhân loại, chủ quyền quốc gia và các quyền con người trước sự xâm hại và đe dọa xâm hại của tội phạm quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế là trách nhiệm rất nặng nề và cao cả của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới.
2. Quyền tài phán của quốc gia
Khi nghiên cứu thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế, chủ thể cũng cần biết được quyền tài phán quốc gia là gì
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982) có hiệu lực từ ngày 16-11-1994, quyền tài phán được định nghĩa như sau:
– Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.
Quyền tài phán là hệ quả của chủ quyền và quyền chủ quyền, có tác dụng bổ trợ tạo ra môi trường để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền. Vì vậy, quyền tài phán gắn bó chặt chẽ với lãnh thổ quốc gia. Tuy vậy, quyền tài phán cũng có thể thực thi ở nơi mà quốc gia đó không có chủ quyền. Chẳng hạn, quyền tài phán có thể được áp dụng trên tàu thuyền, phương tiện treo cờ của quốc gia đó khi chúng đang hoạt động trong các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia khác. Quyền tài phán theo nghĩa rộng bao gồm:
– Thẩm quyền đưa ra các quyết định, quy phạm;
– Thẩm quyền giám sát việc thực hiện;
– Thẩm quyền xét xử của tòa án đối với một lĩnh vực cụ thể; theo nghĩa hẹp đó là thẩm quyền pháp định của tòa án khi xét xử một người hay một việc.
Khi thực hiện các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mình, quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác, không được có hành vi cản trở quyền tự do hàng hải và tự do hàng không của tàu thuyền và các phương tiện bay, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn dầu ngầm; không được có hành vi phân biệt đối xử trong việc các quốc gia khác thực hiện các quyền được UNCLOS 1982 quy định.
3. So sánh giữa đơn vị tài phán quốc tế và đơn vị tài khoán quốc gia
So sánh giữa đơn vị tài phán quốc tế và đơn vị tài khoán quốc gia cũng là vấn đề cần thiết khi nghiên cứu thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế
– Cơ sở hình thành
Cơ quan tài phán quốc tế được hình thành bởi sự thỏa thuận hoặc thừa nhận của các chủ thể luật quốc tế nhằm thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự thủ tục tư pháp các tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc tế. Còn đơn vị tài phán quốc gia là đơn vị do quốc gia đó thành lập nhằm thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh theo một trình tự, thủ tục nhất định do quy phạm pháp luật quy định.
-Chức năng, thẩm quyền
Chức năng, thẩm quyền của các thiết hình phạt phán quốc tế có những nét đặc thù so với các thiết chế tòa án quốc gia.
Cơ quan tài phán quốc tế có chức năng nổi bật nhất là giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế. Mặt khác, một số thiết hình phạt phán còn có chức năng giải thích pháp luật (có giá trị pháp lý như quy phạm pháp luật); tư vấn; giải quyết khiếu nại (Tòa án liên minh châu Âu)….
Khác với đơn vị tài phán quốc tế, đơn vị tài phán quốc gia có những chức năng sau: Với Tòa án, chức năng cần thiết nhất của nó là xét xử. Đối với trọng tài, chức năng của nó là giải quyết các tranh chấp phát sinh do luật quốc gia điều chỉnh. Việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài sẽ giảm bớt những thủ tục và nhanh chóng hơn so với việc giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án. Cơ quan tài phán quốc gia không có chức năng giải thích luật như ở một số đơn vị tài phán quốc tế; đơn vị tài phán quốc gia chỉ giải quyết các tranh chấp do chủ thể của luật quốc gia gây nên…
Cơ quan tài phán quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên theo quy chế hoạt động mà trước hết phụ thuộc vào sự thỏa thuận của chủ thể có liên quan đến tranh chấp xảy ra. Còn thẩm quyền của đơn vị tài phán quốc gia là đương nhiên và theo luật định.
-Cơ cấu tổ chức
Thiết hình phạt phán quốc tế có cơ cấu tổ chức khác với thiết hình phạt phán quốc gia. Đối với Tòa án quốc tế, cơ cấu tổ chức của nó bao gồm: thẩm phán, bộ phận hành chính văn phòng và bộ phận khác. Nhưng đối với thiết chế Tòa án quốc gia, cơ cấu tổ chức của nó có sự khác biệt đối với đơn vị tài phán quốc tế. Thiết hình phạt phán quốc gia có cơ cấu, tổ chức theo luật quốc gia quy định.
Đối với thiết chế trọng tài, cơ cấu tổ chức của trọng tài quốc gia do Luật quốc gia quy định. Cơ cấu tổ chức của thiết chế trọng tài quốc tế bao gồm: hội đồng trọng tài và các trọng tài viên. Đứng đầu hội đồng trọng tài là chủ tịch hội đồng trọng tài (chủ tịch hội đồng trọng tài phải là công dân nước thứ ba không liên quan đến tranh chấp).
-Thủ tục tố tụng
Các đơn vị tài phán quốc tế sử dụng trình tự thủ tục tư pháp để giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc tế. Các thiết chế đơn vị tài phán quốc gia cũng sử dụng trình tự, thủ tục tư pháp để giải quyết các tranh chấp do quy phạm pháp luật quốc gia điều chỉnh. Tuy nhiên, Tòa trọng tài quốc tế cho phép các bên tranh chấp thỏa thuận về việc áp dụng thủ tục tại tòa. Nếu không thỏa thuận được các bên phải tuân thủ công ước Lahay 1899 và 1907. Còn các thiết hình phạt phán quốc gia, khi giải quyết tranh chấp các chủ thể này phải tuân thủ một thủ tục theo luật định, không có quyền thỏa thuận để lựa chọn một trình tự thủ tục khác.
-Giá trị pháp lý của phán quyết
Giá trị pháp lý của một phán quyết tại Tòa án quốc tế hoặc tại các thiết hình phạt phán quốc tế khác được chủ thể tranh chấp thừa nhận và bảo đảm thi hành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà không thông qua trình tự cưỡng chế do đơn vị tài phán quốc tế đã giải quyết tranh chấp thực hiện. Vì vậy, cách thức thực hiện của bản án của đơn vị tài phán quốc tế gần với cơ chế thực thi, tuân thủ luật quốc tế và không có tính chất của việc thực hiện một bản án được đưa ra bởi một đơn vị tài phán theo cách thông thường tại đơn vị tài phán trong từng quốc gia.
Giá trị pháp lý của một phán quyết tại đơn vị tài phán quốc gia mang tính bắt buộc đối với các chủ thể tranh chấp. Tuy nhiên, các chủ thể đó có quyền kháng cáo khi không đồng ý với phán quyết đó. Tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà các phán quyết sẽ bắt buộc thi hành ở giai đoạn nào.
-Hệ thống đơn vị tài phán
Hệ thống đơn vị tài phán quốc tế mang tính chất độc lập, có cơ cấu tổ chức khác biệt và có mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc vào nhau. Nhưng đối với hệ thống đơn vị tài phán quốc gia thì các đơn vị có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Điều này thể hiện rõ nhất ở mô hình Tòa án. Tòa án là một nhánh của quyền lực Nhà nước nên nó mang tính quyền lực rõ rệt. Các thiết chế tòa án quốc gia có sự phân cấp rõ rệt. Hệ thống Tòa án thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau, đơn vị cấp trên giám sát, kiểm tra đơn vị cấp dưới.
Kết luận :
Hai hệ thống đơn vị tài phán quốc tế và đơn vị tài phán quốc gia đều có những đặc trưng nhất định. Qua những phân tích và rút ra những nét đặc thù, sự khác nhau của hệ thống đơn vị tài phán quốc tế so với hệ thống đơn vị tài phán quốc gia. Cơ quan tài phán quốc tế có vai trò cần thiết trong việc hình thành và áp dụng các quy phạm điều ước quốc tế và tập cửa hàng quốc tế.
Những vấn đề có liên quan đến thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế và những thông tin cần thiết khác đã được trình bày cụ thể và chi tiết trong nội dung trình bày. Khi nắm được thông tin về thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế sẽ giúp chủ thể nắm được vấn đề một cách chính xác và rõ rang hơn.
Nếu quý khách hàng vẫn còn câu hỏi liên quan đến thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế cũng như các vấn đề có liên quan, hãy liên hệ ngay với LVN Group.
Công ty luật LVN Group chuyên gửi tới các dịch vụ tư vấn hỗ trợ pháp lý đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian sớm nhất có thể.