Giám đốc thẩm có phải giai đoạn tố tụng độc lập? [2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Giám đốc thẩm có phải giai đoạn tố tụng độc lập? [2023]

Giám đốc thẩm có phải giai đoạn tố tụng độc lập? [2023]

Giám đốc thẩm là một thủ tục tiến hành việc lật lại một bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án để xem xét, xác minh lại toàn bộ quá trình giải quyết, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những cá nhân, tổ chức, đơn vị có quyền và nghĩa vụ liên quan

Theo Điều 370 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Vậy có thể hiểu được rằng giám đốc thẩm không phải giai đoạn tố tụng độc lập.

Giám đốc thẩm có phải giai đoạn tố tụng độc lập? [2023]

1. Khái niệm về giai đoạn tố tụng

Giai đoạn ở Tố tụng hình sự là vấn đề đầu tiên mà khoa học Luật tố tụng hình sự cần phải làm rõ trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề về các giai đoạn tố tụng hình sự.

Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay (kể cả trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 cũng như trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 vừa được thông qua), nhà làm luật nước ta chưa bao giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm này. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, dưới góc độ khoa học khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự có thể được định nghĩa là: bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật.

2. Bản chất pháp lý của giai đoạn tố tụng hình sự

Vì vậy, khái niệm trên đây của một giai đoạn tố tụng hình sự cho phép khẳng định rằng, bản chất pháp lý của một giai đoạn tố tụng hình sự, với tính chất là bước của quả trình tiến hành tố tụng hình sự nhất thiết phải được thể hiện bằng ba đặc điểm chung cơ bản mà bất kỳ giai đoạn tố tụng hình sự nào cũng bắt buộc phải có:

– Giai đoạn tố tụng hình sự phải tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự (như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án).

– Chức năng nhất định đó là đặc trưng chỉ của từng loại chủ thể (đơn vị hoặc người) tiến hành tố tụng (chứ không phải là của tất cả) có thẩm quyền thực hiện. Ví dụ: Điều tra là một giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng chức năng nhất định là điều tra vụ án hình sự mà chức năng đó là đặc trưng chỉ của hai loại chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện – Cơ quan điều tra (trong đại đa số những trường hợp) và Viện kiểm sát (trong một số ít trường hợp), chứ không thể là Tòa án.

– Giai đoạn tố tụng hình sự phải có nội dung là thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

– Hiện nay trong khoa học Luật tố tụng hình sự vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong bài này chúng tôi chưa đề cập đến việc phân tích từng quan điểm đó mà trên cơ sở Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003 mà chỉ đề cập đến việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung chủ yếu và cơ bản nhất về: 1) Khái niệm, 2) Bản chất pháp lý và 3) Vai trò (ý nghĩa) của năm giai đoạn tố tụng hình sự theo thứ tự sau. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; Giai đoạn điều tra; Giai đoạn truy tố; Giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án.

Riêng việc thi hành bản án (quyết định) của Tòa án, mặc dù trong giai đoạn hiện nay nhà làm luật Việt Nam vẫn coi là một giai đoạn tố tụng hình sự và chính thức ghi nhận nó trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, nhưng theo quan điểm của chúng tôi đó không thể và không phải là một giai đoạn tố tụng hình sự, mà là một chuyên ngành luật độc lập (Luật thi hành án hình sự) với các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh khác với Luật tố tụng hình sự và do vậy, nó là một đối tượng nghiên cứu khoa học riêng biệt và cần phải được nghiên cứu bằng nhiều công trình chuyên khảo khác nhau nên trong nội dung trình bày vấn đề này của chúng tôi tạm chưa đề cập đến.

3. Giám đốc thẩm là gì, ý nghĩa của giám đốc thẩm

Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.

Có thể thấy giám đốc thẩm là thủ tục có đặc thù riêng so với xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Tính chất của giám đốc thẩm không phải là hoạt động xét xử vụ án mà là hoạt động xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Và vì thế, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì trước hết phải có văn bản kháng nghị của đơn vị có thẩm quyền, được ban hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trên cơ sở căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định. Tóm lại, văn bản kháng nghị sẽ là cơ sở cần thiết để xét lại vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ý nghĩa của giám đốc thẩm: Việc pháp luật tố tụng hình sự hiện hành quy định về giám đốc thẩm sẽ góp phần đáp ứng những đòi hỏi của nhà nước pháp quyền khi là một trong những cơ chế để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát pháp luật, qua đó đảm bảo cho hoạt động xét xử được hợp pháp và hợp hiến. Bên cạnh đó, thủ tục giám đốc còn góp phần đảm bảo công bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án cũng như đảm bảo uy tín của các đơn vị tư pháp.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com