Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm dân sự [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm dân sự [Chi tiết 2023]

Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm dân sự [Chi tiết 2023]

Kháng nghị giám đốc thẩm là phương thức kiểm soát của Tòa án cấp trên đối với hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới trong việc giải quyết các vụ án, đồng thời là phương tiện để người dân tìm đến công lý trong giải quyết các tranh chấp và để bảo vệ quyền lợi cho bản thân.

Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm dân sự [Chi tiết 2023]

1. Chánh án Toà án nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không

Điều 373. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

  1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
  2. Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
  3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

2. Quy định về giám đốc thẩm của Tòa án

Để thống nhất với quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 382 BLTTHS năm 2015 quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Toà án quân sự Trung ương bị kháng nghị; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực; Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm trong BLTTHS 2015 cũng được sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau: Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm 03 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể); thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm 05 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể. Đồng thời, quy định rõ ràng, cụ thể phạm vi, thẩm quyền xét xử của các Hội đồng này. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 388).

Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” mà không quy định “Thực hiện chế độ 2 cấp xét xử” như trong BLTTHS cũ. Để khắc phục tình trạng vụ án bị kéo dài do phải xét xử sơ thẩm, phúc thẩm lại nhiều lần, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực. Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 393 BLTTHS năm 2015.

Quy định này nhằm bảo đảm trên thực tiễn khi xét xử vụ án theo trình tự giám đốc thẩm có nhiều trường hợp đã rõ ràng về chứng cứ, không cần phải xét xử lại như có đủ căn cứ để giảm nhẹ hình phạt hoặc giảm mức bồi thường cho bị cáo nhưng do quy định hiện hành Hội đồng giám đốc thẩm không có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, chỉ được hủy án để xét xử lại công chuyên giai quyết vụ án kéo dài, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người dân, gây tốn kém, lãng phí ngân sách Nhà nước.

Việc cho phép Hội đồng giám đốc thẩm sửa án không vi phạm nguyên tắc Hiến định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” mà lại đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Để đảm bảo tranh tụng, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định trường hợp có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm. Tuy nhiên, nếu họ vắng mặt thì phiên tòa giám đốc thẩm vẫn được tiến hành.

3. Chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Khi phát hiện một trong những căn cứ kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 371 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối ca

Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực;

Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

4. Điểm mới về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm

Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu trong việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị với người có thẩm quyền xem xét kháng nghị. Đồng thời, Bộ luật lần này đề cao trách nhiệm của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị.

Về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tại Điều 373 BLTTHS năm 2015 quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Vì vậy, BLTTHS năm 2015 không quy định thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao và Viện trưởng VKSND cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.

Riêng về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, BLTTHS cũ quy định có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của “Tòa án quân sự cấp dưới”, BLTTHS năm 2015 quy định rõ là có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của “Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực”.

5. Thời hạn và những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Theo Điều 370 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ như: Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không trọn vẹn các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.

Với ý nghĩa như vậy, Điều 372 của Bộ luật này quy định về việc phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:

“1. Người bị kết án, đơn vị, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị.

2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị.

Tòa án quân sự cấp quân khu thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án quân sự trung ương xem xét kháng nghị.

3. Khi thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà Tòa án, Viện kiểm sát phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị”.

Tóm lại, bất kỳ bản án có hiệu lực pháp luật nào nếu bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án đều bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Điều 373 của Bộ luật này, những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm:

“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2. Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.

3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”.Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nếu có căn cứ xác định vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết cần thiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không biết được khi ra quyết định đó sẽ được xem xét lại theo trình tự khác. Nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó.

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hình sự được quy định theo hướng: Giới hạn thời gian trong trường hợp không có lợi cho người bị kết án và không giới hạn thời gian trong trường hợp có lợi cho người bị kết án. Căn cứ, khoản 1, 2 Điều 379 của Bộ luật này quy định:

“1. Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

2. Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ”.

Tóm lại, nếu kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án, thời hạn kháng nghị chỉ là trong vòng 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Ngược lại, kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án được tiến hành bất cứ lúc nào. Thậm chí, trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ vẫn có thể kháng nghị.

Phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án, đơn vị, tổ chức, cá nhân thông báo bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp với người có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, Viện kiểm sát nơi gần nhất kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có). Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì người có quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho đơn vị, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị biết rõ lý do của việc không kháng nghị

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com