Hòa giải, đối thoại tại Toà án là chế định mới được pháp luật quy định tại Luật hoà giải, đối thoại tại Tòa án (Luật HNGĐTA), có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021. Với ý nghĩa, tầm cần thiết của hòa giải, đối thoại tại Toà án. Có thể nói, sự ra đời của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là quy định mang tính đột phá; kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, pháp lý tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về hòa giải.
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án gồm 03 chương và 42 điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2021. Có thể nói, sự ra đời của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là quy định mang tính đột phá; kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, pháp lý tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về hòa giải.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án từ ngày 01/01/2021 đến nay, có một số bất cập, khó khăn mà không có văn bản nào quy định hướng dẫn để áp dụng thống nhất. Trong phạm vi nội dung trình bày này, người viết đề cập một số vướng mắc và nêu ý kiến về một số vấn đề khi áp dụng Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
1. Đánh giá chung
Sau các bước tổ chức, chỉ đạo triển khai, nhưphổ biến, tuyên truyền Luật và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật trên địa bàn tỉnh; xem xét, tuyển chọn làm Hòa giải viên (HGV); chuẩn bị, nhất là về cơ sở vật chất; tập huấn về bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải, đối thoại tại Tòa án do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức…Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh An Giang đã đạt được những kết quả bước đầu rất tích cực. Tính từ ngày 01/01/2021 đến 20/11/2021 đạt giải quyết 66 vụ trong tổng số 163 đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đồng ý hòa giải, đối thoại tại Tòa án, đạt tỷ lệ 40,5%.
Tuy nhiên, các vụ việc hòa giải, đối thoại thành tại Tòa án đa phần là về yêu cầu ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng cho con và chia tài sản khi ly hôn mang tính chất đơn giản, không có vụ việc điển hình. Số lượng các vụ việc hòa giải, đối thoại chứa nhiều do người khởi kiện, người bị kiện không đồng ý lựa chọn hòa giải, đối thoại, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết. Qua đó, có thể nhận thấy rằng, phần đông nhân dân chưa thực sự hiểu rõ những lợi ích mà việc hòa giải, đối thoại mang lại. Trong thời gian tới, Tòa án hai cấp trong tỉnh sẽ phối hợp với cấp ủy, chính quyền các cấp và các đơn vị báo chí, truyền thông tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, phổ biến Luật HGĐTTTA để nhân dân hiểu và lựa chọn, góp phần đưa đạo luật hết sức tiến bộ này đi vào cuộc sống.
Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm HGV, Tòa án tỉnh xác định HGV là chủ thể trung tâm của Luật HGĐTTTA. Vai trò của HGV là hỗ trợ các bên tham gia hòa giải, đối thoại thỏa thuận, thống nhất giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính. Đây là lực lượng quyết định sự thành công của cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Do đó, HGV ngoài các điều kiện theo hướng dẫn của luật, cần phải có năng lực, tâm huyết thực sự, có khả năng thấu hiểu và thuyết phục các bên đang tranh chấp, xung đột về tâm lý đi đến kết quả thành công. Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế và người dân ít sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật trước và trong quá trình khởi kiện nên HGV còn có vai trò cần thiết trong việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho người dân.
Theo đó, TAND hai cấp đã tuyển chọn được 23 HGV, độ tuổi đa phần từ 60 đến 65 tuổi (Hoà giải viên cao tuổi nhất là 70 tuổi, trẻ tuổi nhất là 35 tuổi). Trong đó, đa số HGV đều là những người am hiểu pháp luật, từng trải qua các công việc liên quan đến pháp luật như Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán đã nghỉ hưu (11 HGV), luật sư (10 HGV) cùng các HGV có uy tín cao trong cộng đồng dân cư (02 HGV) nhằm đáp ứng yêu cầu công tác hòa giải, đối thoại.
Cùng với những kinh nghiệm đúc kết được sau nhiều năm công tác, các HGV tham dự trọn vẹn các buổi tập huấn nghiệp vụ chuyên môn, thường xuyên trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng, nhất là kỹ năng “dân vận khéo”; lắng nghe dân để nắm bắt tâm tư nguyện vọng để tìm được nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn, giải tỏa những bức xúc, từ đó đi đến kết quả hòa giải thành, đối thoại thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử.
Thời gian qua cho thấy, họ là những người có năng lực và tâm huyết, giàu kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm sống, họ ở tâm thái mong muốn được tiếp tục cống hiến cho xã hội trong những hoạt động mang tính xã hội và nhân văn. Kết quả cũng cho thấy, Thẩm phán và những cán bộ địa phương về hưu được tín nhiệm cao, tạo sự tin tưởng và thiện cảm đối với người dân nên hòa giải, đối thoại đạt hiệu quả cao.
2. Khó khăn chung
Tòa án tỉnh chú trọng triển khai thực hiện Luật HGĐTTTA, nhưng quá trình thực hiện gặp khá nhiều tồn tại, hạn chế.
Do không có kinh phí để triển khai thực hiện hòa giải, đối thoại tại Tòa án, TAND cấp huyện đã chủ động tận dụng phòng công tác, phòng nghị án và trang thiết bị hiện có để bố trí phòng công tác, phòng hòa giải, đối thoại nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác hòa giải, đối thoại theo hướng dẫn.
Việc giải quyết án hành chính liên quan đến việc áp dụng nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực quản lý Nhà nước khác nhau. Mỗi lĩnh vực quản lý Nhà nước lại có nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. HGV đa số là các Thẩm phán về hưu, luật sư nên thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức trong quản lý nhà nước, chưa được thực hiện tập huấn thường xuyên.
Người có đủ điều kiện đăng ký tham gia làm HGV còn quá ít, thậm chí có những đơn vị Tòa án đến nay không có HGV (Châu Đốc, Tân Châu).
Đa số đương sự chọn khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; bởi họ chưa hiểu hết và tin vào hòa giải, đối thoại tại tòa án.
Chưa có hướng dẫn thống nhất về mẫu Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án còn chưa được hiểu và áp dụng thống nhất trong thực tiễn, hiện không có biểu mẫu về “Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành”.
Luật quy định, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo hướng dẫn của pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, không có quy định nào về việc Tòa án phải gửi quyết định đó cho Cơ quan Thi hành án dân sự.
Công tác lưu trữ hồ sơ vụ việc hòa giải, các loại sổ nghiệp vụ phục vụ cho việc hòa giải, đối thoại tại TAND chưa được TANDTC ban hành, hướng dẫn nên hiện nay các đơn vị tự soạn thảo dẫn đến việc ban hành không thống nhất với nhau.
Chưa có cơ chế giám sát hoạt động của HGV như: Từ chối nhận vụ, việc để hòa giải hoặc HGV lợi dụng trong quá trình hòa giải, đối thoại để thực hiện những hành vi không đúng.
3. Những khó khăn, vướng mắc cụ thể
1. Về tuyên truyền, phổ biến
Đa số người dân chưa nắm rõ và hiểu hết ý nghĩa của luật, mặt khác các bên muốn sự việc được giải quyết nhanh chóng, sớm đưa ra xét xử nên đa số không đồng ý hòa giải, đối thoại. Một số trường hợp, luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện đã tư vấn cho các bên không đồng ý hòa giải, đối thoại khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án.
Hiện nay, không có con dấu riêng của đơn vị hòa giải, đối thoại, các văn bản do Hoà giải viên gửi cho đương sự chỉ có chữ ký của HGV và đóng dấu treo Toà án nơi HGV công tác, do đó, tạo tâm lý không tin tưởng của người dân khi nhận được thông báo của Hoà giải viên.
Các trường hợp đã thụ lý giải quyết theo Luật HGĐTTTA tại Tòa án chủ yếu thuộc những vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình đơn giản; các trường hợp tranh chấp dân sự khác (trường hợp tranh chấp phức tạp) thì người dân còn tâm lý e ngại, sợ khó thi hành tại giai đoạn thi hành án nếu một trong các bên không thực hiện đúng theo kết quả hòa giải.
Qua đây, chúng tôi kiến nghị, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến trên các kênh thông tin đại chúng, giúp người dân hiểu rõ hơn ý nghĩa nhân văn sâu sắc của việc hòa giải, đối thoại và đưa Luật HGĐTTTA tại Tòa án thực sự đi vào cuộc sống, trở thành phương thức giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp tốt nhất, hiệu quả nhất trong đời sống, xã hội.
2. Về trình tự, thủ tục
Về các thủ tục tống đạt các thông báo, quyết định, giấy mời thì Tòa án và Hoà giải viên vẫn còn lúng túng không có quy định cụ thể hay hướng dẫn đối với các văn bản này có thể áp dụng các cách thức cấp tống đạt tương tự quy định tại Chương X: Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo hướng dẫn của Bộ luật tố tụng dân sự được không? Trường hợp cho phép thực hiện thì Toà án có thể sử dụng kinh phí chi cho công tác hoà giải, đối thoại tại Toà án để ký hợp đồng với đơn vị, tổ chức có chức năng tống đạt để thực hiện các thủ tục này không?
Xin đề xuất: Được áp dụng các cách thức cấp tống đạt tương tự quy định tại Chương X Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự và được sử dụng kinh phí chi cho công tác hoà giải, đối thoại tại Toà án để ký hợp đồng với Cơ quan, tố chức có chức năng tống đạt phục vụ cho các thủ tục liên quan đến hoà giải, đối thoại tại Toà án.
3. Về yêu cầu gửi tới chứng cứ
Thời hạn Thẩm phán được phân công xem xét công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Toà án là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Tuy nhiên, trong thời hạn này Thẩm phán được phân công có quyền yêu cầu đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền gửi tới cho Toà án tài liệu, làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Thực tế hiện nay khi yêu cầu các đơn vị, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trả lời khi Toà án yêu cầu thì không có quy định nào các đơn vị, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trả lời trong khoảng thời gian nào là hợp lý thông thường các văn bản tố tụng thời gian được quy định là 01 tháng, trong khi theo Luật HGĐTTTA chỉ cho giới hạn là 15 ngày để ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành ít nhiều ảnh hưởng đến quyết định của Thẩm phán ban hành quyết định vì hết thời gian này vẫn chưa nhận được trả lời của các đơn vị chuyên môn.
Do đó, xin đề xuất: Có thể áp dụng trường hợp xét thấy cần thiết nhưng hết thời hạn 05 ngày công tác kể từ ngày nhận được thông báo, yêu cầu mà Toà án chưa nhận được kết quả trả lời thì Thẩm phán có được quyền ra quyết định công nhận hoặc ra quyết định không công nhận hoặc được xem là trở ngại khách quan để kéo dài thời hạn xem xét ra quyết định công nhận kết quả hoà giải thành, đối thoại thành mà không bị vi phạm thời gian theo hướng dẫn hiện nay là 15 ngày.
4. Giải quyết việc nuôi con từ 7 tuổi trở lên trong vụ án hôn nhân
Theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời uỷ quyền đơn vị quản lý Nhà nước về gia đình, đơn vị quản lý Nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến…”. Trong Luật HGĐTTTA không có quy định hay bắt buộc việc lấy ý kiến này nên HGV sẽ không thực hiện. Đến giai đoạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành liên quan đến nội dung nhằm đảm bảo về mọi mặt của con chung khi giải quyết về việc ly hôn thì Thẩm phán bắt buộc phải thực hiện nội dung lấy ý kiến của các con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên theo hướng dẫn.
Xin đề xuất: Thống nhất việc lấy ý kiến con chung chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời uỷ quyền đơn vị quản lý Nhà nước về gia đình, đơn vị quản lý Nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến đối với các vụ, việc hôn nhân gia đình thì nên có quy định bổ sung HGV phải thực hiện đối với việc này nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa chưa thành niên.
5. Thi hành Quyết định công nhận hòa giải thành
Theo khoản 2 Điều 35 Luật HGĐTTTA tại Tòa án, quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo hướng dẫn của pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, quy định về phạm vi điều chỉnh, bản án, quyết định được thi hành tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì không có quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án thuộc phạm vi những bản án, quyết định được thi hành. Vì vậy, việc tổ chức thi hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án theo pháp luật thi hành án dân sự sẽ gặp khó khăn.
Xin đề xuất sửa đổi bổ sung phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành án dân sự theo hướng điều chỉnh thêm “Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án”.
6. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị
Đa phần trụ sở đơn vị nhỏ hẹp, các phòng công tác đang bố trí cho công chức, người lao động tại đơn vị chưa đảm bảo; trang thiết bị công tác cũ, còn thiếu. Cho nên, việc sắp xếp, bố trí phòng công tác, các trang thiết bị phục vụ công tác hòa giải, đối thoại tại đơn vị gặp khó khăn. Đề nghị cấp kinh phí để các đơn vị thuê trụ sở và mua sắm trang thiết bị công tác phục vụ công tác hòa giải, đối thoại
7. Về kết quả hòa giải, đối thoại
Trường hợp vụ việc bị đơn vắng mặt 02 lần và không hòa giải, đối thoại được, có được xem là vụ việc đã được hòa giải, đối thoại nhưng không thành để tính 01 vụ thống kê, báo cáo và chi tiền cho HGV được không
Thẩm phán sau khi nhận hồ sơ HGV và 15 ngày kiểm tra lại, nhận thấy chưa đủ điều kiện thì có ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành được được không
Sau khi lập biên bản hòa giải đối thoại thành, mà các bên không thực hiện, không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận, nếu phát sinh tranh chấp nộp đơn đến Tòa án (không yêu cầu hòa, giải đối thoại) thì Tòa án có thụ lý theo thủ tục tố tụng thông thường hay lại tiếp tục thực hiện theo thủ tục hòa giải, đối thoại nếu đương sự có yêu cầu
Về việc ban hành Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án là trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và tài liệu kèm theo (nếu có đã đủ điều kiện) hay sau 15 ngày mới có thể ban hành quyết định
Những vướng mắc này đề nghị TANDTC có hướng dẫn cụ thể.
4. Nội dung khác
Có nhiều vụ, việc tranh chấp đơn giản nhưng do bên bị kiện bỏ địa phương hoặc cố tình lẫn tránh nên khi tổ chức hòa giải, đối thoại phải buộc chuyển sang giải quyết theo pháp luật tố tụng. Vì vậy, tốn thời gian, công sức của các bên tham gia và các HGV.
Đối với hoà giải những vụ án hôn nhân gia đình mà các bên thuận tình ly hôn thì biên bản ghi nhận kết quả hoà giải có đề cập đến hiệu lực của giấy đăng ký kết hôn được không?
Luật HGĐTTTA và các văn bản hướng dẫn chỉ quy định về việc xử lý đối với trường hợp người bị kiện đồng ý hoặc không đồng ý tiến hành hòa giải, đối thoại mà chưa quy định đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi nhận được thông báo về việc chuyển vụ việc sang hòa giải, đối thoại mà không đồng ý hòa giải, đối thoại thì HGV có tiến hành hòa giải, đối thoại không? Và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có được đề nghị thay đổi HGV được không?
Điều 20 Luật HGĐTTTA quy định, thời hạn hòa giải, đối thoại là 20 ngày kể từ ngày HGV được chỉ định; đối với vụviệc phức tạp thì thời hạn này được kéo dài không quá 30 ngày. Quy định thời hạn này là ngắn vì HGV phải mời các bên, phải thu thập chứng cứ, phải gặp gỡ, trao đổi giữa các bên… nên HGV khó đảm bảo được thời hạn nêu trên.
Theo quy định tại Điều 14 Luật HGĐTTTA, HGV có quyền yêu cầu các bên gửi tới thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp, khiếu kiện; các thông tin, tài liệu liên quan khác cần thiết cho việc hòa giải, đối thoại. Quy định này có thể thực hiện được đối với các tranh chấp của cá nhân với cá nhân nhưng các tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức, cá nhân với đơn vị Nhà nước thì rất khó thực hiện trên thực tiễn, bởi các lẽ sau: HGV khi thực hiện nhiệm vụ thì nhân danh gì để yêu cầu các bên gửi tới thông tin, tài liệu, yêu cầu bằng con đường nào? Trình tự, thủ tục thế nào và người được yêu cầu phải có nghĩa vụ gì?
Theo quy định tại Điều 24 Luật HGĐTTTA thì HGV ấn định thời gian, địa điểm và thông báo cho các bên, người uỷ quyền, người phiên dịch chậm nhất là 05 ngày trước ngày mở phiên hòa giải và việc thông báo có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc cách thức khác phù hợp. Vậy HGV thông báo thế nào, có được điện thoại hoặc email cho các bên không? Mặt khác trong trường hợp niêm yết, cách tính thời gian thông báo cho đương sự từ ngày niêm yết là bao nhiêu ngày?
Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Vì vậy, ngoài biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại thì có tài liệu kèm theo. Vậy, căn cứ nào xác thực được tài liệu này được thu thập trong quá trình hòa giải, đối thoại là chính xác. Trong khi điểm đ khoản 1 Điều 14 Luật HGĐTTTA quy định về quyền của HGV: “Không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của thông tin, tài liệu, chứng cứ do các bên gửi tới” Điều này dễ tạo ra những sai sót làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của các bên đương sự. Hậu quả của việc này giải quyết thế nào chưa được đề cập.
Khi có đủ các điều kiện theo hướng dẫn tại Điều 33 Luật HGĐTTTA này thì Thẩm phán được phân công ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và phải gửi quyết định đó cho các bên và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày công tác kể từ ngày Tòa án ra quyết định và Quyết định này không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên các bên tham gia có quyền đề nghị, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại quyết định, như vậy có khác gì so với kháng cáo, kháng nghị không? Trong trường hợp quyết định bị hủy thì có Thẩm phán ra quyết định có bị tính là bị hủy 01 vụ không?
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 16/NĐ-CP, mức đóng tạm ứng chi phí hòa giải, đối thoại theo tỷ lệ do các bên thương lượng, nếu không thương lượng thì đóng với tỷ lệ như nhau (mỗi bên chịu 50%). Tuy nhiên, thực tiễn trong các vụ án kinh doanh thương mại có giá ngạch, hoặc khi phát sinh chi phí khi tiến hành các thủ tục hòa giải, đối thoại đa phần bên bị kiện không đồng ý hoặc trốn tránh nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí. Có thể cho bên khởi kiện tạm ứng toàn bộ chi phí được không? Mặt khác, khi vụ, việc hòa giải đối thoại được chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thì người khởi kiện có phải nộp tạm ứng án phí theo hướng dẫn tại Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 không?
Trường hợp hòa giải thành nhưng đương sự không yêu cầu công nhận kết quả thì đây có phải là căn cứ để Tòa án tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng hay HGV vẫn tiếp tục hòa giải và khắc phục để làm căn cứ Tòa án ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành.
Do đó, đề nghị TANDTC hướng dẫn về nhận thức “Yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện các nội dung đã hòa giải thành, đối thoại thành” theo điểm i khoản 1 Điều 8 của Luật.