Luật hòa giải có hiệu lực khi nào? [Chi tiết 2023]

Nhằm tiết kiệm thời gian công sức của người dân, đồng thời bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, qua đó khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, đối thoại tại tòa án. Ngày 16/6/2020 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Hòa giải, đối thoại tại Toà án là chế định mới được pháp luật quy định tại Luật hoà giải, đối thoại tại Tòa án (Luật HNGĐTA), có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021.Hiện nay, pháp luật quy định các hoạt động hòa giải trong các lĩnh vực, như: hòa giải ở cơ sở; hòa trong tố tụng hành chính; hòa giải tranh chấp đất đai; hòa giải thương mại; hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Bài viết khái quát lại một số quy định liên quan đến các hoạt động hòa giải.

Luật Hoà giải ở cơ sở kể từ ngày ngày 01 tháng 01 năm 2014 Luật này có hiệu lực, các tổ hòa giải, tổ viên tổ hòa giải được thành lập, công nhận theo Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được tiếp tục hoạt động mà không phải làm thủ tục công nhận lại theo hướng dẫn của Luật này. 

Luật hòa giải có hiệu lực khi nào? [Chi tiết 2023]

1. Hoà giải đối thoại tại Toà án 

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án đối với hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án. 

Hòa giải, đối thoại theo hướng dẫn của Luật này được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.

Luật này không áp dụng đối với hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định.

Nguyên tắc hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Luật này quy định 09 nguyên tắc hòa giải, trong đó đặc biệt nhấn mạnh 02 nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc tự nguyện và nguyên tắc bảo mật thông tin trong hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Quyền của các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Theo quy định của Luật này, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án có các quyền sau đây:

  • Đồng ý hoặc từ chối tham gia hòa giải, đối thoại hoặc chấm dứt hòa giải, đối thoại;
  • Trực tiếp hoặc thông qua người uỷ quyền tham gia hòa giải, đối thoại;
  • Lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính; trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện thì có thể lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện khác trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án nhân dân cấp tỉnh;
  • Đề nghị thay đổi Hòa giải viên theo hướng dẫn của Luật Hòa giải, đối thoại;
  • Đề nghị Hòa giải viên bố trí phiên dịch trong trường hợp người tham gia hòa giải, đối thoại là người không biết tiếng Việt, người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn;  
  • Yêu cầu Hòa giải viên, người tham gia hòa giải, đối thoại, đơn vị, tổ chức, cá nhân khác, Thẩm phán tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại giữ bí mật thông tin do mình gửi tới;
  • Bày tỏ ý chí, đề xuất phương thức, giải pháp giải quyết tranh chấp, yêu cầu, khiếu kiện; thống nhất về nội dung hòa giải, đối thoại; Yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành;
  • Yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện các nội dung đã hòa giải thành, đối thoại thành;
  • Đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành theo hướng dẫn của Luật.

Nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Theo quy định của Luật này, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án có các nghĩa vụ như sau:

  • Tuân thủ pháp luật;
  • Tham gia hòa giải, đối thoại với tinh thần thiện chí, hợp tác để thúc đẩy quá trình hòa giải, đối thoại đạt kết quả tích cực; trình bày chính xác tình tiết, nội dung của vụ việc, gửi tới kịp thời, trọn vẹn thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc theo yêu cầu của Hòa giải viên;
  • Chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin, tài liệu, chứng cứ mà mình gửi tới trong quá trình hòa giải, đối thoại; nếu thông tin, tài liệu, chứng cứ gửi tới là giả mạo thì kết quả hòa giải, đối thoại bị vô hiệu; trường hợp có dấu hiệu tội phạm thì bị xử lý theo hướng dẫn của pháp luật về hình sự; nếu gây tổn hại cho đơn vị, tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường theo hướng dẫn của pháp luật;  
  • Tôn trọng Hòa giải viên và các bên có liên quan; thực hiện các yêu cầu của Hòa giải viên theo hướng dẫn của Luật này;  
  • Chấp hành quy chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án; 
  • Thực hiện các nội dung đã hòa giải thành, đối thoại thành.

Trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại và công nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án              

Hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án chỉ được thực hiện đối với các vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ những trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại theo hướng dẫn của Luật này, đồng thời phải được sự đồng ý của các bên tham gia hòa giải đối thoại. Luật quy định trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại như sau:  

  • Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính.
  • Xác định vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và không thuộc những vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án.         
  • Gửi thông báo cho các bên về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên và chỉ định Hòa giải viên. 
  • Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại nếu các bên đồng ý tham gia hòa giải, đối thoại; hoặc Tòa án chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu để xử lý theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng nếu một trong các bên không đồng ý hòa giải, đối thoại.

Việc hòa giải, đối thoại có thể được tiến hành bằng nhiều phương thức khác nhau theo Luật này. Thời hạn hòa giải, đối thoại là không quá 20 ngày kể từ ngày Hòa giải viên được chỉ định; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể được kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Các bên tham gia hòa giải, đối thoại có thể thống nhất kéo dài thời hạn hòa giải, đối thoại nhưng không được quá 02 tháng.

– Tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Khi các bên tham gia hòa giải, đối thoại đạt được sự thỏa thuận, thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính thì Hòa giải viên tổ chức phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, kết quả đối thoại có sự tham gia của Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại hoặc Thẩm phán khác do Chánh án Tòa án phân công.  

– Ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.

Tòa án xem xét ra quyết định công nhận hoặc không công nhận khi có đủ hai điều kiện: Có Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại tại Tòa án; người tham gia hòa giải, đối thoại yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.

Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, kết quả đối thoại thành.

   Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo hướng dẫn của pháp luật về thi hành án dân sự. Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành được thi hành theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng hành chính. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có thể bị xem xét lại theo đề nghị của các bên, người uỷ quyền hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định của Tòa án, kiến nghị của Viện kiểm sát nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định của Luật.

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021.

2. Hòa giải ở cơ sở

Hòa giải ở cơ sở được quy định tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Luật này quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên, tổ hòa giải; hoạt động hòa giải ở cơ sở; trách nhiệm của đơn vị, tổ chức trong hoạt động hòa giải ở cơ sở. Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố). Hòa giải viên là người được công nhận theo hướng dẫn của Luật Hòa giải ở cơ sở để thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở. Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở để hoạt động hòa giải theo hướng dẫn của Luật Hòa giải ở cơ sở. Về phạm vi hòa giải, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải được nêu tại Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở (mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo hướng dẫn của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải; vi phạm pháp luật mà theo hướng dẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo hướng dẫn pháp luật).

Về bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở, hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các đơn vị Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố cần thiết, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Hoạt động hòa giải ở cơ sở được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập cửa hàng tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, (trừ trường hợp hòa giải viên phải thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có biện pháp phòng ngừa trong trường hợp thấy mâu thuẫn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo đơn vị có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự). Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo hướng dẫn của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

Hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải; theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Địa điểm hòa giải là nơi xảy ra vụ, việc hoặc nơi do các bên hoặc hòa giải viên lựa chọn, bảo đảm thuận lợi cho các bên. rong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày được phân công, hòa giải viên bắt đầu tiến hành hòa giải, trừ trường hợp cần thiết phải hòa giải ngay khi chứng kiến vụ, việc hoặc các bên có thỏa thuận khác về thời gian hòa giải.

Hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên. Trong trường hợp các bên có người khuyết tật thì có sự hỗ trợ phù hợp để có thể tham gia hòa giải. Hòa giải được tiến hành công khai hoặc không công khai theo ý kiến thống nhất của các bên. Tùy thuộc vào vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập cửa hàng tốt đẹp của nhân dân, hòa giải viên áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị đơn vị, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo hướng dẫn của pháp luật.

Hòa giải thành là trường hợp các bên đạt được thỏa thuận. Các bên có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận hòa giải thành. Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, nếu một bên vì sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện được thì có trách nhiệm trao đổi, thỏa thuận với bên kia và thông báo cho hòa giải viên.  Hòa giải viên có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành do mình trực tiếp giải quyết; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác Mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện.

Hòa giải không thành là trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận. Trong trường hợp này, các bên có quyền yêu cầu tiếp tục hòa giải hoặc yêu cầu đơn vị, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo hướng dẫn của pháp luật.

Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án: Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau: các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có trọn vẹn năng lực hành vi dân sự; vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở; các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý; có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba; một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, công tác.

 Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự. Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp. Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu. Luật Hoà giải ở cơ sở có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014

3. Hòa giải trong tố tụng dân sự

Hòa giải trong tố tụng dân sự được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. 

Theo quy định của BLTTDS 2015, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm tổ chức phiên hòa giải theo hướng dẫn trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; vụ án không được tiến hành hòa giải (Điều 206 BLTTDS) và những vụ án không tiến hành hòa giải được (Điều 207 BLTTDS). Mặt khác, pháp luật tố tụng cũng quy định việc hòa giải có thể được thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện bằng việc Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thể thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án được không. Tùy mỗi giai đoạn, việc hòa giải, thỏa thuận giữa các đương sự được ghi nhận dưới cách thức và giá trị pháp lý khác nhau.

Những trường hợp không được hòa giải: vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây tổn hại đến tài sản của Nhà  nước; những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội; Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; một trong các bên đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì đây là căn cứ suy đoán nội dung thỏa thuận tại biên bản hòa giải thành đã thể hiện đúng ý chí, mong muốn của chủ thể tham gia nên cần được công nhận.    

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay khi được ban hành và có giá trị pháp lý khi không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

4. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã

Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị đơn vị có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai cách thức giải quyết tranh chấp đất đai theo hướng dẫn sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng hành chính.

5. Hòa giải thương mại

Hòa giải thương mại được điều chỉnh bởi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ. Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo hướng dẫn. Phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại là tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại: các bên tranh chấp tham gia hòa giải hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải phải được giữ bí mật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền của bên thứ ba.

 Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại: tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thỏa thuận hòa giải. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời gian nào của quá trình giải quyết tranh chấp.

Trình tự, thủ tục hòa giải thương mại: Các bên có quyền lựa chọn Quy tắc hòa giải của tổ chức hòa giải thương mại để tiến hành hòa giải hoặc tự thỏa thuận trình tự, thủ tục hòa giải. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về trình tự, thủ tục hòa giải thì hòa giải viên thương mại tiến hành hòa giải theo trình tự, thủ tục mà hòa giải viên thương mại thấy phù hợp với tình tiết vụ việc, nguyện vọng của các bên và được các bên chấp thuận. Tranh chấp có thể do một hoặc nhiều hòa giải viên thương mại tiến hành theo thỏa thuận của các bên. Tại bất kỳ thời gian nào trong quá trình hòa giải, hòa giải viên thương mại đều có quyền đưa ra đề xuất nhằm giải quyết tranh chấp. Địa điểm, thời gian hòa giải được thực hiện theo thỏa thuận của các bên hoặc theo lựa chọn của hòa giải viên thương mại trong trường hợp các bên không có thỏa thuận.

Khi đạt được kết quả hòa giải thành các bên lập văn bản về kết quả hòa giải thành. Văn bản về kết quả hòa giải thành có hiệu lực thi hành đối với các bên theo hướng dẫn của pháp luật dân sự. Trường hợp không đạt được kết quả hòa giải thành, các bên có quyền tiếp tục hòa giải hoặc yêu cầu Trọng tài hoặc Tòa án giải quyết tranh chấp theo hướng dẫn của pháp luật. Văn bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận theo hướng dẫn của pháp luật tố tụng dân sự.

Thủ tục hòa giải chấm dứt trong các trường hợp sau đây: khi các bên đạt được kết quả hòa giải thành; khi hòa giải viên thương mại xét thấy không cần thiết tiếp tục thực hiện hòa giải, sau khi cân nhắc ý kiến của các bên; theo đề nghị của một hoặc các bên tranh chấp.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com