Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án số 58/2020/QH14 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 16/6/2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021.
Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án có kết cấu 4 Chương, 42 Điều, quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Toà án; quyền và nghĩa vụ của Hoà giải viên tại Toà án, các bên tham gia hoạt động hoà giải, đối thoại tại Toà án; trách nhiệm của Tòa án trong hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
1. Điều 32 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án
“ Điều 32. Thủ tục raquyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án
- Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chínhđể ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu.
- Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Trong thời hạn này, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét ra quyết định có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu một hoặc các bên trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đã được ghi tại biên bản;
b) Yêu cầu đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền gửi tới cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày công tác kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
3. Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Trường hợp có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành;
b) Trường hợp không có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này thì Thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và nêu rõ lý do. Thẩm phán chuyển quyết định, biên bản và tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng.
4. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được gửi cho các bên và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày công tác kể từ ngày Tòa án ra quyết định”.
2. Hoà giải, đối thoại
Hoà giải, đối thoại đóng vai trò đặc biệt cần thiết khi giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện, mâu thuẫn phát sinh trong xã hội, với cách thức thân thiện, đồng thuận trên nguyên tắc chia sẽ, cảm thông, góp phần hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai, xây dựng đoàn kết trong nhân dân, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, hoà giải thành, đối thoại thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên toà xét xử; kết quả hoà giải thành, đối thoại thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành; vụ việc không phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng dẫn của luật, bộ luật tố tụng; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và của Nhà nước; hạn chế tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 1 Luật Hòa giải, đối thoại tại Toà án thì hòa giải, đối thoại tại Tòa án được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án chủ yếu dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không được ép buộc các bên thỏa thuận, thống nhất trái với ý chí của họ, bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên, nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc đơn vị, tổ chức, cá nhân khác, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân khác, hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại độc lập và tuân theo pháp luật, bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em…
Theo Luật hòa giải, đối thoại tại Toà án, VKSND có chức năng kiểm sát các hoạt động mang tính tư pháp của Thẩm phán và Tòa án nhân dân trong quá trình hòa giải, đối thoại nhằm góp phần bảo đảm cho hoạt động hòa giải, đối thoại được tuân thủ đúng quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được tôn trọng, theo đó Luật đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND như sau:
Tại Điều 32 Luật hoà giải, đối thoại tại Toà án quy định Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được biên bản và tài liệu kèm theo, Thẩm phán được phân công ra Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành… Quyết định này được gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày công tác kể từ ngày Tòa án ra quyết định”.
Theo quy định tại Điều 34 Luật hoà giải, đối thoại tại Toà án thì “quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính” nên Viện Kiểm sát không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với các quyết định này, nhưng nếu có căn cứ cho rằng “nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này” thì Viện Kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ban hành quyết định “có quyền kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án”.
Trong trường hợp Viện Kiểm sát kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì “Trong thời hạn 02 ngày công tác kể từ ngày nhận được đơn đề nghị hoặc văn bản kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành, Tòa án cấp trên trực tiếp yêu cầu Tòa án đã ra quyết định chuyển hồ sơ, tài liệu. Trong thời hạn 02 ngày công tác kể từ ngày nhận được yêu cầu, Tòa án đã ra quyết định phải chuyển hồ sơ, tài liệu cho Tòa án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 02 ngày công tác kể từ ngày nhận được hồ sơ, tài liệu, Tòa án cấp trên trực tiếp phải thụ lý và phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết; đồng thời thông báo cho người đề nghị, Viện Kiểm sát kiến nghị và Viện Kiểm sát cùng cấp”.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu.
Trên cơ sở đó, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau: Hủy quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và chuyển vụ việc cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính (nếu phát hiện có vi phạm điều kiện quy định tại Điều 33 Luật hoà giải, đối thoại tại Toà án; không chấp nhận kiến nghị và giữ nguyên quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; đình chỉ việc xem xét kiến nghị (nếu Viện Kiểm sát rút kiến nghị). Các quyết định giải quyết này phải được gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp với Tòa án ra quyết định và Viện Kiểm sát đã kiến nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn 5 ngày công tác kể từ ngày ra quyết định. Quyết định giải quyết kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Với các quy định nêu trên, về cách thức Viện Kiểm sát chỉ kiểm sát các quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành của Tòa án mà không kiểm sát các hành vi của các chủ thể khác tham gia vào quá trình hòa giải, đối thoại ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, thông qua kiểm sát các quyết định công nhận hoặc không công nhận do Tòa án ban hành, Viện Kiểm sát cũng đã gián tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể khác tham gia vào trong quá trình hòa giải, đối thoại trước đó.
Do Luật không quy định Tòa án chuyển tài liệu, hồ sơ kèm Quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành cho Viện Kiểm sát cùng cấp và Viện Kiểm sát không trực tiếp tham gia vào các giai đoạn hòa giải, đối thoại mà chỉ kiểm sát các quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành của Tòa án, việc thi hành các quyết định này.Tuy nhiên, trong quá trình kiểm sát, Viện Kiểm sátcó thể phối hợp, vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao – Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa VKSND và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ để thực hiện kiểm sát theo hướng dẫn.
3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nói chung và nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, đảm bảo cho hoạt động hòa giải, đối thoại được tuân thủ đúng quy định của pháp luật, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát cần chú ý kiểm sát các hoạt động, thủ tục như sau:
Kiểm sát thẩm quyền của Tòa án tiến hành hòa giải, đối thoại
Quy trình hòa giải được bắt đầu khi người khởi kiện nộp đơn đến Tòa án nhưng Tòa án chưa được xem xét đơn khởi kiện để thụ lý như quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (khoản 3 Điều 191 BLTTDS) mà phải xem xét để giải quyết hòa giải tại Tòa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước. Vì vậy, mặc dù Luật Hòa giải, đối thoại không quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền nhưng Tòa án tiếp nhận đơn khởi kiện vẫn phải xác định tranh chấp có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được không.Việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc hòa giải, đối thoại được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, tại điểm a khoản 2 Điều 2 Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC quy định chi tiết về trình tự, thủ tục nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên,hướng dẫn cụ thể nếu đơn khởi kiện được gửi đến Tòa án không đúng thẩm quyền thì quá trình hòa giải chấm dứt và Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán xem xét giải quyết đơn khởi kiện theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, quy định của Luật Hòa giải, đối thoại đã xác định rõ việc xác định thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp vẫn phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành. Việc xác định này là phù hợp bởi người khởi kiện khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án là họ mong muốn giải quyết tranh chấp của mình bằng con đường Tòa án, trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu không lựa chọn phương thức hòa giải, đối thoại thì Tòa án đã nhận được sẽ tiếp tục có thẩm quyền xem xét, thụ lý đơn khởi kiện của họ mà không phải nộp đơn đến một Tòa án khác.
Kiểm sát thời hạn ban hành Quyết định
Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại và tài liệu kèm theo. Quá thời hạn này mà Thẩm phán chưa ban hành ngay Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là vi phạm thời hạn ra Quyết định. Kiểm sát viên cần báo cáo Lãnh đạo viện để ban hành kiến nghị.
Kiểm sát thẩm quyền ra Quyết định
Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 32 của Luật để xem xét việc Thẩm phán ra quyết định có đúng thời hạn được không. Trường hợp hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo cùng với yêu cầu của các bên nhưng Thẩm phán không ban hành Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành hoặc Quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành vào ngày tiếp theo sau khi hết thời hạn 15 ngày thì được coi là vi phạm thời hạn ra quyết định và Kiểm sát viên phải ghi nhận vi phạm này vào phiếu kiểm sát.
Kiểm sát thời hạn gửi Quyết định
Khi kiểm sát việc chấp hành thời hạn gửi Quyết định, Kiểm sát viên cần căn cứ vào quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật để xác định thời hạn gửi quyết định cho Viện kiểm sát đúng quy định được không. Kiểm sát viên căn cứ ngày ban hành Quyết định và ngày Viện kiểm sát nhận được quyết định để xác định Tòa án có vi phạm về thời hạn gửi quyết định không.
Kiểm sát cách thức, nội dung Quyết định
Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại ban hành kèm theo 11 biểu mẫu liên quan đến hòa giải và 11 biểu mẫu liên quan đến đối thoại, nhưng mới chỉ dừng lại ở biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại, không có biểu mẫu Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành nên còn gây khó khăn cho quá trình thực hiện công tác kiểm sát. Tuy nhiên, về cơ bản khi kiểm sát Quyết định, Kiểm sát viên cần chú trọng nghiên cứu các nội dung sau:
- Kiểm sát căn cứ pháp lý, nhận định và phần quyết định trong Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án có phù hợp với các quy định của pháp luật, đảm bảo đúng quy định của nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự và phù hợp với nội dung biên bản ghi nhận kết quả hòa giải được không.
- Kiểm sát vụ việc có thuộc một trong các trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo Điều 19 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án được không.
Theo đó, Luật quy định 07 trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án, gồm: (1) Yêu cầu bồi thường do gây tổn hại đến tài sản của Nhà nước. (2) Vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. (3) Các bên tham gia hòa giải, đối thoại được mời tham gia hòa giải, đối thoại hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, hoặc không thể tham gia vì có lý do chính đáng. (4) Một bên vợ hoặc chồng trong tranh chấp ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự. (5) Một trong các bên đề nghị không tiến hành hòa giải, đối thoại. (6) Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. (7) Trường hợp khác theo hướng dẫn của pháp luật. Bên cạnh đó, khi kiểm sát Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành, Kiểm sát viên cần đảm bảo Quyết định phải có trọn vẹn các nội dung được quy định Điều 34 của Luật.
Nếu xét thấy vụ việc thuộc một trong các trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại nêu trên nhưng Tòa án vẫn tiến hành hòa giải, đối thoại và ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì Viện Kiểm sát phải kiến nghị xem xét lại Quyết định đó.
Kiểm sát các điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án
Theo Điều 33 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án gồm: (1) Các bên có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn. (2) Các bên là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận, thống nhất. (3) Nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc đơn vị, tổ chức, cá nhân khác.
Lưu ý, Thẩm phán chỉ được ra Quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành nếu thỏa mãn đồng thời các điều kiện trên. Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có trọn vẹn nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo hướng dẫn của Luật Hôn nhân và gia đình. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại thì thỏa thuận, thống nhất chỉ được công nhận khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của họ. Trường hợp các bên thỏa thuận, thống nhất được một phần tranh chấp dân sự, một phần khiếu kiện hành chính thì chỉ được công nhận khi nội dung thỏa thuận, thống nhất không liên quan đến các phần khác của tranh chấp, khiếu kiện đó.
4. Thủ tục kiến nghị của Viện Kiểm sát
Về thủ tục kiến nghị, Điều 37 Luật hòa giải, đối thoại tại Toà án quy định: “Viện Kiểm sát kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành phải gửi văn bản kiến nghị đến Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành”.
Trong thời hạn 15 ngày, Kiểm sát viên phải nghiên cứu Quyết định và tiến hành kiểm sát để kịp thời phát hiện vi phạm và ban hành kiến nghị đúng thời hạn, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cũng như vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hiện quyền năng pháp lý được do Luật định.
Trong thời gian VKSND tối cao chưa ban hành biểu mẫu văn bản kiến nghị, nên vận dụng các biểu mẫu Kiến nghị về việc ban hành quyết định (văn bản) của Tòa án Ban hành kèm theo Quyết định số 410/QĐ-VKSTC ngày 25/11/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao để xây dựng kiến nghị.