Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên để những lợi ích của cơ chế hòa giải, đối thoại cho người dân được hiểu rõ thì hầu hết sẽ do cán bộ được phân công phụ trách việc nhận đơn phổ biến cho người dân. Việc phổ biến sẽ mang tính chủ quan, phụ thuộc vào quan điểm, cách nhìn nhận của người phổ biến, bên cạnh đó còn phần nào có sự ảnh hưởng từ sự tư vấn của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Hầu hết những vụ, việc chuyển sang thủ tục hòa giải đối thoại phần lớn là những việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, tranh chấp ly hôn, nuôi con và một số ít là các tranh chấp dân sự đơn giản như tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
1. Điều 40 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án
” Điều 40. Chấm dứt hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Việc hòa giải, đối thoại chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Hòa giải thành, đối thoại thành;
- Các bên không đạt được thỏa thuận, thống nhất về toàn bộ nội dung vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính hoặc chỉ thỏa thuận, thống nhất được một phần vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính nhưng phần đó có liên quan đến những phần khác của vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính;
- Một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại;
- Trong quá trình hòa giải, đối thoại phát hiện vụ việc thuộc trường hợp quy định tại Điều 19 của Luật này;
- Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính trong quá trình hòa giải, đối thoại;
- Người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”.
2. Thủ tục xử lý đơn khởi kiện
Theo khoản 3 Điều 16 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Trong thời hạn 02 ngày công tác kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 4, 6 và 7 Điều 19 của Luật này thì Tòa án thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện, người yêu cầu biết về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên theo hướng dẫn của Luật này.”
Luật không quy định về việc xử lý thế nào trong trường hợp cần yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, yêu cầu vì sai, thiếu sót về về cách thức và nội dung đơn. Sau khi nhận đơn, Chánh án phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại, Thẩm phán được phân công thực hiện việc chỉ định Hòa giải viên, tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại, xác nhận vào biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại. Mặt khác, cũng không quy định Hòa giải viên phải yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn.
Vì vậy, sau khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, trường hợp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu không có đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 189 của BLTTDS (về cách thức và nội dung đơn khởi kiện) thì Tòa án không yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu mà phải thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện, người yêu cầu biết về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên.
Điều này ảnh hưởng đến việc nghiên cứu hồ sơ, xây dựng phương án, giải pháp hòa giải, đối thoại của Hòa giải viên, vì Hòa giải viên sẽ không thể biết được yêu cầu cụ thể của người khởi kiện, người yêu cầu.
Vì vậy, cần bổ sung thêm thủ tục xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
3. Về thủ tục cấp, tống đạt văn bản
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không có bất cứ quy định hay hướng dẫn nào về thủ tục cấp, tống đạt các văn bản cho đương sự. Mặt khác, hòa giải, đối thoại được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng dẫn của BLTTDS, Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, không thể áp dụng những quy định tại Chương X “Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng” của BLTTDS để phục vụ cho việc tống đạt các văn bản trong quá trình hòa giải, đối thoại.
Đồng thời, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án cũng không quy định về việc phân công Thư ký đối với các hoạt động của hòa giải, đối thoại, nên việc cấp, tống đạt các văn bản liên quan đến việc hòa giải, đối thoại có thuộc trách nhiệm của Thẩm phán được phân công phụ trách và Hòa giải viên được chỉ định được không?
Vì vậy, cần quy định cụ thể về thủ tục cấp tống đạt các văn bản trong Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
4. Về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên của người khởi kiện, người yêu cầu
Theo quy định tại khoản 4, 5, 6 và 8 Điều 16 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đều quy định trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu không có ý kiến trả lời về việc có đồng ý được không lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên; người bị kiện không có ý kiến về việc đồng ý hoặc không đồng ý tiến hành hòa giải, đối thoại, thì Tòa án vẫn phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải đối thoại, chỉ định Hòa giải viên và chuyển vụ việc sang thủ tục hòa giải đối thoại, chứ không đương nhiên được chuyển đơn sang giải quyết theo thủ tục tố tụng.
Khoản 1 Điều 41 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, thụ lý vụ việc theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính trong trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 40 của Luật này…”
Khoản 2 Điều 40 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định về việc hòa giải, đối thoại chấm dứt khi thuộc trường hợp một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại
Nếu muốn chuyển đơn để tiến hành xem xét, thụ lý vụ việc theo hướng dẫn của BLTTDS, Luật Tố tụng hành chính trong trường hợp đương sự không có bất cứ ý kiến gì thì cần trải qua hết các thủ tục giống như một vụ việc hòa giải, đối thoại khi đương sự có ý kiến đồng ý hòa giải, đối thoại. Việc này trên thực tiễn cũng làm tốn thời gian cho Thẩm phán được phân công phụ trách và Hòa giải viên được chỉ định, tốn kém về kinh phí để chi trả cho hoạt động hòa giải, đối thoại.
Vì vậy, cần thay đổi quy định đối với trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu sau khi được thông báo lần thứ hai về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên, nhưng vẫn không có ý kiến trả lời, thì đương nhiên chuyển đơn để tiến hành xem xét, thụ lý vụ việc theo hướng dẫn của BLTTDS, Luật Tố tụng hành chính.
5. Căn cứ chấm dứt hòa giải, đối thoại
Việc hòa giải, đối thoại chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hòa giải thành, đối thoại thành;
b) Các bên không đạt được thỏa thuận, thống nhất về toàn bộ nội dung vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính hoặc chỉ thỏa thuận, thống nhất được một phần vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính nhưng phần đó có liên quan đến những phần khác của vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính;
c) Một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại;
d) Trong quá trình hòa giải, đối thoại phát hiện vụ việc thuộc trường hợp không hòa giải đối thoại;
đ) Trong quá trình hòa giải, đối thoại một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính trong quá trình hòa giải, đối thoại;
e) Người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
6. Xử lý việc chấm dứt hòa giải, đối thoại tại Tòa án
a) Hòa giải viên phải lập biên bản yêu cầu việc chấm dứt hòa giải, đối thoại, gửi biên bản kèm theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, thụ lý vụ việc theo hướng dẫn của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và thông báo cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại biết trong các trường hợp sau đây:
– Hòa giải đối thoại không thành;
– Một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại;
– Vụ việc thuộc trường hợp không hòa giải, đối thoại;
– Quá trình hòa giải đối thoại, một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Chú ý: Khi chuyển hồ sơ, tài liệu cho Tòa án, Hòa giải viên không được chuyển những tài liệu phải bảo mật quy định tại khoản 3 Điều 4 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
b) Trường hợp người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải quyết theo hướng dẫn chung và thông báo cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại biết.
Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại không được tham gia giải quyết vụ việc đó theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.