Bình luận Pháp luật - Mẫu văn bản
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Pháp lệnh ưu đãi người có công với Cách mạng 2020 được ban hành ngày 09/12/2020 và có hiệu lực từ 01/7/2021. Phòng tư vấn hỗ trợ pháp lý của LVN Group xin thông tin tới bạn đọc.

Số hiệu: 02/2020/UBTVQH14 Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Người ký: Nguyễn Thị Kim Ngân
Ngày ban hành: 09/12/2020 Ngày hiệu lực: 01/07/2021
Ngày công báo: 09/01/2021 Số công báo: Từ số 31 đến số 32
Tình trạng: Còn hiệu lực

Chế độ ưu đãi với người có công với cách mạng và người thân

Ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng 2020.

Theo đó, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và người thân được hưởng như sau:

– Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần;

– Các chế độ ưu đãi khác gồm:

+ Bảo hiểm y tế; Điều dưỡng phục hồi sức khỏe;

+ Cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng cần thiết theo chỉ định của cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng thuộc ngành LĐTB&XH hoặc của bệnh viện tuyến tỉnh trở lên;

+ Ưu tiên trong tuyển sinh, tạo việc làm;

+ Hỗ trợ để theo học đến trình độ đại học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;

+ Hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào công lao, hoàn cảnh của từng người hoặc khi có khó khăn về nhà ở;

+ Miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất ở, chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở, công nhận quyền sử dụng đất ở, khi được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước;

+ Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển; ưu tiên giao khoán bảo vệ và phát triển rừng;

+ Vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh;

+ Miễn hoặc giảm thuế.

So với quy định tại Điều 4 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì Pháp lệnh mới đã thêm nhiều ưu đãi hơn đối với người có công với cách mạng như: hỗ trợ vay vốn ưu đãi để sản xuất kinh doanh, miễn hoặc giảm thuế,…

Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng 2020 có hiệu lực từ ngày 01/7/2021.

Hy vọng bài viết sẽ có ích cho bạn đọc!

Để biết thêm thông tin chi tiết, cân nhắc thêm dịch vụ tư vấn của LVN Group hãy liên hệ 1900.0191

Xem trước và tải xuống

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Thuộc tính văn bản

Số hiệu: 06/2013/UBTVQH13 Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Người ký: Nguyễn Sinh Hùng
Ngày ban hành: 18/03/2013 Ngày hiệu lực: 01/01/2014
Ngày công báo: 15/04/2013 Số công báo: Từ số 193 đến số 194
Tình trạng: Còn hiệu lực

Pháp lênh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

Căn cứ Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011;

Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ,

Xem trước và tải xuống Pháp lệnh ngoại hối sửa đổi năm 2013

Bài viết có liên quan:

  • Thông tư 07/2012/TT-NHNN được ban hành ngày 20/03/2012
  • Thông tư 19/2018/TT-NHNN được ban hành ngày 28/08/2018
  • Mua bán ngoại tệ trái phép bị xử phạt thế nào theo hướng dẫn
  • Có được trả lương cho lao động nước ngoài bằng ngoại tệ?

Trên đây là bài viết tư vấn của chúng tôi về “Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh ngoại hối năm 2013“. Hy vọng bài viết có ích cho bạn đọc. Mọi câu hỏi xin vui lòng liên hệ: 1900.0191

Giải đáp có liên quan

Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

Pháp lệnh này điều chỉnh các hoạt động ngoại hối tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đôi tượng áp dung:
Tổ chức, cá nhân là người cư trú, người không cư trú có hoạt động ngoại hối tại Việt Nam.
Các đối tượng khác có liên quan đến hoạt động ngoại hối.

Chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

1. Thuộc tính văn bản

Số hiệu: 10/2003/PL-UBTVQH11 Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Người ký: Nguyễn Văn An
Ngày ban hành: 17/03/2003 Ngày hiệu lực: 01/07/2003
Ngày công báo: 07/05/2003 Số công báo: Số 33
Tình trạng: Còn hiệu lực

2. Tóm tắt văn bản

Để góp phần bảo vệ truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, danh dự, nhân phẩm của con người, hạnh phúc gia đình, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, xây dựng và phát triển con người Việt Nam;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm 2002 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 2 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) và năm 2003;
Pháp lệnh 2003 quy định về phòng, chống mại dâm.

3. Xem trước và tải xuống Pháp lệnh phòng chống mại dâm 2003

Bài viết có liên quan

  • Môi giới mại dâm qua mạng internet bị phạt bao nhiêu năm tù?
  • Hành vi mua dâm người dưới 14 tuổi bị xử phạt thế nào?
  • Hiếp dâm người 16 tuổi và quay phim tống tiền bị xử lý thế nào?

Liên hệ ngay LVN Group

LVN Group là đơn vị Luật uy tín, chuyên nghiệp; được nhiều cá nhân và tổ chức đặt trọn niềm tin về dịch vụ pháp lý. Được hỗ trợ và đồng hành để giải quyết những khó khăn về mặt pháp lý của quý khách là mong muốn của Luật sư X.

Nếu còn câu hỏi và muốn sử dụng dịch vụ thành lập công ty; hãy liên hệ với chúng tôi theo số hotline: 1900.0191

Hi vọng bài viết trên sẽ hữu ích đối với quý bạn đọc!

Giải đáp có liên quan

Người dưới 18 tuổi mua dâm người dưới 18 tuổi có vi phạm pháp luật không?

Việc người dưới 18 tuổi mua dâm người dưới 18 tuổi là hành vi pháp luật không cấm. Và theo hướng dẫn tại Điều 329 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; có thể thấy cấu thành tội phạm của tội mua dâm người dưới 18 tuổi chỉ quy định chủ thể của tội phạm là người đủ 18 tuổi trở lên. Vậy nên, người dưới 18 tuổi mua dâm người dưới 18 tuổi hiện giờ vẫn được coi không phải là hành vi vi phạm pháp luật.

Cán bộ, công chức tham gia hoạt động môi giới mại dâm bị xử lý thế nào?

Cán bộ, công chức hoặc người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi môi giới mại dâm thì trong thời gian bị xử lý kỷ luật không được đề cử, ứng cử vào các đơn vị dân cử, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; không được bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm lại, bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương hoặc cao hơn trong các đơn vị nhà nước hoặc trong lực lượng vũ trang nhân dân.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Sự khác biệt và tương đồng điển hình trong đào tạo pháp Luật ở Anh và Mỹ.

Common law – một trong hai dòng họ pháp luật lớn nhất trên thế giới được bắt nguồn và áp dụng trên lãnh thổ Anh, sau đó xuất hiện tại Mỹ qua con đường bành trướng thuộc địa. Tuy nhiên, do đặc trưng là quốc gia đa tôn giáo, sắc tộc, văn hóa; cơ cấu lãnh thổ được chia thành nhiều tiểu bang khiến Mỹ đã và đang có sự phát triển hệ thống pháp luật mang bản sắc của riêng mình. 

Đào tạo luật là một thành tố quan trọng trong sự phát triển hệ thống pháp luật cũng như phổ biến, giáo dục pháp luật tại mỗi quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với nhu cầu tìm hiểu và so sánh đào tạo luật giữa các hệ thống pháp luật rất lớn và cần thiết không chỉ với nhà lập pháp, nghiên cứu pháp luật mà còn với luật sư, học sinh, sinh viên… 

Về mục tiêu, nhằm tìm hiểu các nét tương đồng và khác biệt có tính đặc trưng về đào tạo luật ở Anh và Mỹ, bài tiểu luận sẽ khái quát chung về đào tạo luật ở Anh và Mỹ, từ đó có cơ sở nhằm nêu bật những điểm tương đồng và khác biệt đặc trưng trong đào tạo luật tại hai quốc gia này trước khi trình bày các kết luận của nhóm tác giả. 

Về phương pháp nghiên cứu, để đạt được mục tiêu đề ra, nhóm tác giả sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá, đi từ tổng quan tới chi tiết nhằm nêu bật những đặc điểm mang tính đặc trưng cần tìm.

1. Khái quát về đào tạo luật ở Anh và Mỹ 

1.1.Đào tạo luật tại Anh

Ở Anh, đào tạo luật phân tách rõ giữa các giai đoạn học thuật, dạy nghề và đào tạo chuyển tiếp. Nghề luật sư được phân biệt cụ thể theo hướng tư vấn và tranh tụng tụng đã ảnh hưởng trực tiếp mục tiêu, phương pháp, chương trình đào tạo luật. Trong khi đó, việc đào tạo thẩm phán tiến hành thông qua khóa học chính quy để đào tạo ra các thẩm phán mới và thông qua các khóa học bổ túc để phát triển kĩ năng nghề nghiệp và kiến thức cho các thẩm phán đang hành nghề. Thông thường, con đường trở thành thẩm phán phải xuất phát từ luật sư tranh tụng. 

Đào tạo cử nhân luật ở Anh được nhìn nhận có phần nhẹ hơn so với nhiều nước khác ở Châu Âu. Đào tạo cử nhân luật là quá trình đào tạo ở bậc đại học do các khoa luật của các trường đại học thực nhiệm; còn đào tạo nghề diễn ra ở bậc sau đại học và thuộc chức năng của cơ sở đào tạo được cấp phép bởi Đoàn luật sư và bởi Hội luật gia.

1.2.Đào tạo luật tại Mỹ 

Ở Mỹ, điều kiện tiên quyết là người học luật đã hoàn thành một chương trình cử nhân do đào tạo luật là đào tạo sau đại học. Yêu cầu trên nhằm tạo nền tảng để tiếp thu các kiến thức pháp lý trong từng chuyên ngành hẹp. Ví dụ, người muốn hành nghề luật sư trong lĩnh vực kinh doanh thường có bằng cử nhân về thương mại hoặc quản trị kinh doanh. 

Sau khi hoàn thành chương trình J.D, người học phải vượt qua kỳ thi do đoàn luật sư của mỗi bang tổ chức để có thể hành nghề luật. Nhìn chung, đào tạo luật ở Mỹ đòi hỏi người học phải có vốn kiến thức tương đối trên nhiều lĩnh vực trước khi nghiên cứu chuyên sâu pháp luật. Những quy định khắt khe về đào tạo luật đã tạo ra những thế hệ thẩm phán, luật sư có trình độ năng lực cao, tham gia và đóng góp quan trọng trong đời sống xã hội Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung. 

2. Điểm tương đồng đặc trưng trong đào tạo luật ở Anh và Mỹ

2.1.Vai trò quan trọng của án lệ trong đào tạo luật

Là một trong những thành tố tiêu biểu của Common law, án lệ là nguồn luật được ưu tiên áp dụng và bị chi phối ít nhiều bởi học thuyết tiền lệ pháp. Từ đó, giảng dạy luật thông qua các nghiên cứu án lệ là một đặc trưng trong đào tạo luật tại hai quốc gia này. Tại Anh, đặc biệt trong giai đoạn đào tạo cử nhân, nghiên cứu án lệ được xem như một phần không thể thiếu ở các trường luật. Giai đoạn sau đại học, việc giảng dạy theo vụ việc diễn ra theo một hình thức khác, thiết thực hơn qua vụ việc giả định, phiên tòa giả định, buổi tham vấn hoặc đàm phán. Cuối cùng, trong thời gian đào tạo thực hành, học viên sẽ bắt đầu làm việc trên các vụ việc thực tế và được giám sát của các luật sư giàu kinh nghiệm. Sự tồn tại của giai đoạn đào tạo khác biệt này chứng minh một cá nhân ngay cả khi đã hoàn thành cử nhân cần phải tiếp tục tiếp cận, nghiên cứu và thật sự hiểu các vụ việc thực tế.2 Còn ở Mỹ, giảng dạy theo án lệ đã trở thành nền tảng trong đào tạo luật. “Phương pháp vụ việc” do Christopher Columbus Langdell sáng tạo và tiên phong áp dụng khi làm Hiệu trưởng Trường Luật Harvard vào cuối thế kỉ 19 được mô tả là “phương pháp sư phạm đặc trưng” trong các trường luật Hoa Kỳ3, tiếp tục được duy trì và hoàn thiện đến ngày nay. 

2.2.Tuyển sinh đầu vào 

Đào tạo luật có uy tín và vị trí quan trọng trong giáo dục ở Anh và Mỹ khi góp tạo ra nhiều thế hệ chính trị gia, lãnh đạo của công ty, tập đoàn hàng đầu, các luật sư nổi tiếng toàn cầu nhờ quy trình tuyển chọn học viên vô cùng khắt khe, gồm những cá nhân ưu tú và xuất sắc. Ở Mỹ, các khoa luật đều đặt ra tiêu chuẩn khá cao, nhiều trường hợp chỉ chọn được một sinh viên trong số năm hoặc mười người dự tuyển.4 Thông thường, điểm GPA đầu vào trung bình các trường luật nổi tiếng như Yale, Harvard, UC Berkeley phải đạt mức xuất sắc (từ 3.6 trở lên). Bên cạnh đó, kỳ thi chuẩn hóa LSAT về các kỹ năng về lập luận, phân tích logic, viết luận được sử dụng nhằm tìm kiếm những học viên có năng lực, tiềm năng nhất. 

Ở Anh, dù đào tạo luật được thực hiện ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông nhưng yêu cầu đầu vào vẫn rất cao và khắt khe. “Kỳ thi Năng khiếu Quốc gia về Luật” (LNAT) được tổ chức nhằm đánh giá kiến thức cũng như khả năng lập luận, đánh giá, kết luận của ứng viên. Nhờ đó, các trường luật sẽ tìm kiếm được những người có năng lực và phù hợp nhất để tham gia học luật. 

2.3.Chi phí và thời gian đào tạo 

Điểm tương đồng đào tạo luật tại Anh và Mỹ không chỉ đặc trưng bởi những yếu tố học thuật mà còn bởi chi phí tốn kém. Dù có học bổng hoặc các khoản vay từ Hội đồng Hỗ trợ của các cơ sở đào tạo nhưng gánh nặng về chi phí vẫn còn rất lớn. Tại Anh, mức học phí tuy có sự khác nhau giữa sinh viên bản địa và sinh viên quốc tế, nhưng trung bình từ 12000-18000 bảng/năm. Con số này ở Hoa Kỳ thậm chí còn lớn hơn, đặc biệt tại các trường luật hàng đầu, con số hàng năm không thấp hơn 50000 USD. Tổng thể, thời gian để một người có đủ khả năng hành nghề luật trung bình từ 06-07 năm, đòi hỏi sự kiên trì, chăm chỉ và năng lực học thuật để đáp ứng lượng kiến thức khổng lồ luật trong thời gian tương đối dài. 

3. Điểm khác biệt đặc trưng trong đào tạo luật ở Anh và Mỹ 

3.1.Lịch sử phát triển và ý tưởng về việc đào tạo luật 

Ở Anh hình thức đào tạo luật trong các trường dòng do các đoàn luật sư tổ chức (Inns of Court) xuất hiện từ thế kỷ 13 thông qua việc học viên quan sát các quy trình tố tụng tại Tòa và các cuộc tranh luận cũng như phiên tòa giả định. Những cơ sở dạy nghề này giúp học viên được học trực tiếp qua thực hành với những luật sư có kinh nghiệm. Đến khi các trường dòng dần mất vị trí (trường dòng xuất hiện và thoái trào từ thế kỉ 13-17), chế độ học nghề (Chế độ học nghề (apprenticeship): Bộ luật Anh 1729 (Act for the Better Regulation of Attorneys and Solicitors) yêu cầu một người phải dành 05 năm tại các văn phòng luật trước khi chính thức hành nghề đã khiến cho chế độ học nghề dần đánh mất vị trí do tính chất nhàm chán, thụ động. Cho đến cuối thế kỉ 18, mô hình đào tạo này cũng đã tồn tại ở Mỹ khi cá nhân có nguyện vọng học luật sẽ liên hệ với một luật sư và làm việc họ. Học viên được hướng dẫn lý thuyết pháp lý và kỹ năng hành nghề để trở thành luật sư) nổi lên thế chỗ. Do vậy, phải mất gần hai thế kỷ (từ giữa thế kỉ 17-19), đào tạo luật tại các trường đại học mới có chỗ đứng (trước đó tại đại học đã giảng dạy về luật La Mã, nhưng Common law không thuộc phạm vi giảng dạy vì sự tồn tại của trường dòng). Chế độ học nghề và trường dòng tuy giờ đây mất vị thế độc tôn nhưng vẫn tồn tại trong tư tưởng người Anh, tác động tới việc ngày nay đào tạo luật tại đại học chủ yếu cung cấp khoa học, tri thức mang tính hàn lâm, còn kỹ năng thực hành được “dành lại” vào giai đoạn sau đại học. 

Còn tại Mỹ, chế độ học nghề đã từng phổ biến khi chế độ thuộc địa tồn tại. Nhưng vào cuối thế kỉ 18, các luật sư độc lập hoặc các nhóm luật sư nhỏ bắt đầu mở các trường luật của họ. Tiếp đó, đầu thế kỉ 19, các trường đại học bắt đầu thuê giáo sư luật và mở các khoa luật. Luật được giảng dạy giống như lịch sử và kinh tế, và nghiên cứu về pháp luật tập trung vào học thuyết và lý thuyết pháp lý. Bắt đầu từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, ngày càng nhiều người chọn đào tạo luật tại cơ sở đại học. Hiệp hội luật sư Mỹ (ABA) ra đời đã tiếp tục thúc đẩy vị trí đào tạo luật tại đại học và những nghiên cứu của tổ chức này sau này đã góp phần xây dựng mô hình đào tạo luật ba năm phổ biến tại Hoa Kỳ. Thay vì chỉ nghiên cứu, giảng dạy học thuyết và lý thuyết pháp lý, đến cuối những năm 1950, nội dung thực tiễn bắt đầu được tích hợp vào chương trình giảng dạy tại hầu hết các trường luật. Yêu cầu về kỳ thi chuẩn hóa được áp dụng bắt buộc và vẫn duy trì tới nay. 

Có thể thấy, không giống như đào tạo luật tại Anh vốn dựa vào trường dòng qua hàng thế kỷ, lịch sử đào tạo luật tại Hoa Kỳ tuy ‘trẻ hơn’ nhưng phát triển rất nhanh chóng. Điều này dẫn tới tại Anh khi mô hình đào tạo luật bậc đại học xuất hiện không hoàn toàn triệt tiêu mô hình đào tạo cũ qua việc trường dòng vẫn tồn tại tới tận ngày nay. Trong khi ở Mỹ đã hình thành mô hình đào tạo luật riêng, khác biệt cơ bản với ở Anh. 

3.2.Mục tiêu đào tạo 

Tại Anh, đào tạo luật hướng tới hai cấp độ mục tiêu: (1) trang bị kiến thức khoa học pháp lý (academic) cho người học, họ sẽ được cấp bằng cử nhân luật sau khi kết thúc khóa học; (2) dạy nghề, với mục tiêu này người học sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề luật.6 Như vậy xuất hiện sự phân tách rõ ràng về mục tiêu riêng khi bậc đại học tập trung đào tạo học thuyết và lý thuyết pháp lý, còn kiến thức phục vụ hành nghề luật sẽ được giảng dạy sau khi người học kết thúc bậc cử nhân. Không chỉ vậy, đào tạo luật còn phân biệt giữa đào tạo luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn – một đặc trưng cơ bản trong đào tạo luật tại Anh. Đây là hệ quả của việc tồn tại đồng thời luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn trong hệ thống pháp luật. 

Trong đào tạo luật ở Mỹ, mô hình đào tạo luật sư tư vấn và tranh tụng không tồn tại như ở Anh mà kết hợp hai mô hình trên vào một. Xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề để trang bị tới học viện đầy đủ kiến thức lẫn kỹ năng, qua đó nhanh chóng tham gia hành nghề luật sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra do mỗi bang tại Mỹ có hệ thống pháp luật riêng nên mục tiêu đào tạo luật từng bang có những khác biệt, trong khi tại Anh không có yêu cầu về phạm vi, lãnh thổ như vậy. 

3.3.Tuyển sinh đầu vào 

Tuy cùng có quy trình tuyển chọn khắt khe, nhưng mỗi quốc gia vẫn có đặc trưng riêng. Tại Anh, do đào tạo luật xuất hiện từ bậc cử nhân nên ứng viên phải trải qua “Kỳ thi Năng khiếu Quốc gia về Luật” (LNAT). Bài thi này gồm 2 phần, phần A trả lời các câu hỏi trắc nghiệm; phần B tự luận, ứng viên phải thể hiện khả năng lập luận và kết luận về một loạt các vấn đề có chủ đề khác nhau.7 Nhiều trường luật còn yêu cầu phỏng vấn nhằm tạo điều kiện với ứng viên dù không có điểm số ấn tượng vẫn có cơ hội học luật ở Anh.8 

Tại Mỹ, ứng viên cần hoàn thành chương trình cử nhân trước đó và trải qua “Kỳ thi tuyển sinh trường luật” (LSAT). Bài kiểm tra gồm 5 phần bao gồm trắc nghiệm và tự luận. Đó là Lập luận logic 1&2, Lập luận phân tích, Đọc hiểu theo hình thức trắc nghiệm; và phần Viết luận.9 So số lượng ứng viên hàng năm rất đông, bộ phận tuyển sinh của các trường không phỏng vấn như ở Anh mà họ xem xét các yếu tố khác như điểm GPA đại học, lĩnh vực học đại học hay bài luận, cũng như “động lực, khả năng lãnh đạo, kinh nghiệm làm việc hoặc hoạt động ngoại khóa, nền tảng gia đình, văn hóa và cộng đồng…” của ứng viên để đưa ra quyết định10 nhưng điểm GPA đại học và điểm LSAT vẫn thường được quan tâm chủ yếu. Do đó, ứng viên thường học cử nhân về tiếng Anh, lịch sử hoặc khoa học chính trị để đạt điểm cao nhất có thế. Từ các số liệu thực tế11 chứng minh đầu vào trường luật tại Mỹ mang tính cạnh tranh cực cao, bao gồm việc đặt nặng vấn đề điểm LSAT và GPA có phần cứng nhắc hơn so với yêu cầu ở Anh. 

3.4.Bậc học và thời gian đào tạo 

Tại Anh, quy trình từ bậc học đại học (undergrad) – đào tạo cử nhân luật (có thời gian đào tạo là 03 năm tại trường đại học) đến đào tạo nghề luật – bậc sau đại học (postgrad), trong thời gian đó ứng viên có thể lựa chọn đào tạo luật sư tư vấn (thời gian đào tạo 01 năm và 02 năm thực tập) hoặc luật sư tranh tụng (thời gian đào tạo 01 năm và 01 năm thực tập). Sau thời gian đó mới được xem xét cấp giấy phép hành nghề. Trung bình, thời gian hoàn tất quy trình đào tạo luật này kéo dài từ 05 đến 06 năm. Tại Mỹ, sinh viên luật phải hoàn thành ít nhất một chương trình đại học Những người này khi trúng tuyển sẽ theo học 03 năm tại khoa luật để lấy bằng J.D.12 Do đào tạo nghề lồng ghép trong thời gian bằng đó ứng viên sau khi tốt nghiệp có thể tham gia kỳ thi cấp giấy phép hành nghề luật sư. Như vậy, tổng thế ứng viên phải dành 6-7 năm, gồm trung bình 3-4 năm cử nhân và 3 năm học luật. Điều này dẫn đến độ tuổi trung bình cho tốt nghiệp sinh khoa luật ở Mỹ là 29.13 

3.5.Vấn đề thi cử và bằng cấp 

Ở Anh, sau khi tốt nghiệp đại học, cá nhân có bằng cử nhân luật L.L.B, từ đây họ có thể lựa chọn để trở thành luật sư tư vấn hay luật sư tranh tụng. Tùy thuộc vào quyết định của mình, ứng viên tham gia những khóa học riêng biệt để hành nghề. Để trở thành luật sư tranh tụng, họ phải vượt qua Bar Professional Training Course và tương tự Solicitors Qualifying Examination (SQE)14 nếu muốn trở thành luật sư tư vấn. Sau khi có được chứng chỉ BPTC hoặc SQE và tham dự đủ 12 buổi bắt buộc tại trường dòng (Inns of Court), ứng viên mới được công nhận năng lực tranh tụng (tương tự với luật sư tư vấn). Sau thời gian thực tập mới được Đoàn luật sư/Hội luật gia) cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư tranh tụng/tư vấn. 

Để trở thành luật sư ở Anh, không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật. Những trường hợp này có thể là: có bằng đại học ở ngành khác, không có bằng đại học hoặc là sinh viên, luật sư nước ngoài. Họ có thể tham gia các khóa học và bài thi theo từng trường hợp để có đủ tư cách tham gia chế độ học nghề và thực tập sau đại học như một cử nhân luật bình thường tại Anh, ví dụ như những người đã có bằng đại học trái ngành sẽ tham gia khóa học 1 năm để vượt qua kỳ thi sát hạch nghề phổ thông (CPE) hoặc lấy bằng Diploma về luật (GDL), hoặc các luật sư nước ngoài có thể tham gia Chương trình Chuyển giao Luật sư Đủ điều kiện (QLTS)… Khác với ở Mỹ, nơi một tấm bằng về luật là điều kiện bắt buộc nếu muốn hành nghề luật sư.

Ở Mỹ, sinh viên sau khi tốt nghiệp được gọi là – Juris Doctor/Doctor of Jurisprudence (J.D) – bằng học thuật cấp độ đầu tiên của ngành luật. Bằng J.D. là một đặc trưng của đào tạo luật tại Mỹ, do số giờ học để đạt được bằng này nhiều hơn đáng kể với thời gian một người phải học để đạt được bằng cử nhân ở các ngành khác, do vậy nó không còn được gọi là LL.B(Trước những năm 60, các trường luật ở Mỹ vẫn cấp bằng cử nhân LL.B cho các sinh viên tốt nghiệp.16 MBE, MEE hay MPT được đưa ra và gợi ý bởi Hội đồng Quốc gia về Giám định luật sư (NCBE). Hầu hết các bang đều sử dụng các thành phần bài thi này để tạo thành bài kiểm tra bar của mình, nhưng vẫn có các bang tự tạo ra và tổ chức bài thi của riêng mình ví dụ như California và Pennsylvania) và nó và cũng không tương đương bằng cử nhân luật ở các nước khác. Đối với cá nhân được đào tạo luật bên ngoài nước Mỹ phải hoàn thành chương trình thạc sĩ Master of Laws (LL.M) trong 1 năm hoặc theo học 3 năm cho bằng J.D để được tham dự kỳ hành nghề luật sư. Bằng luật cao nhất ở Mỹ là bằng tiến sĩ – Doctor of Juridical Science (J.S.D)/Doctor of Laws (LL.D), với điều kiện đã hoàn thành LL.M. Bằng S.J.D tương đương Ph.D ở châu Âu và các nước khác xong thưởng chỉ là bằng danh dự, không cấp cho nghiên cứu sinh mà chỉ dành cho người có đóng góp lớn cho nền khoa học pháp lý. 

Để trở thành luật sư sau khi tốt nghiệp J.D., ứng viên phải vượt qua kỳ thi kiểm tra năng lực tại tiểu bang nơi đăng ký dự thi. Đây là kỳ thi thách thức để chọn ra những người có năng lực hành nghề thực sự. Kỳ thi gồm ít nhất 2 phần: phần thi khách quan để kiểm tra kiến thức cơ bản trong các vấn đề nền tảng như hợp đồng, tài sản, vi phạm dân sự, luật tố tụng và luật hiến pháp; phần thi viết bài luận về các chủ đề. Trong kỳ thi, các loại bài thi thường được kết hợp sử dụng tùy theo từng bang, bao gồm Bài kiểm tra trắc nghiệm 200 câu (Multistate Bar Examination (MBE)); Bài luận (Multistate Essay Examination (MEE)) và Bài kiểm tra khả năng thực tiễn (Multistate Performance Test (MPT) thực hiện các công việc tiêu chuẩn của một người luật sư như viết memo hoặc tóm tắt.16 

3.6.Chương trình và phương pháp đào tạo 

Ở Mỹ, chương trình đào tạo luật chính quy để trở thành luật sư đơn giản chỉ có chương trình đào tạo cho bằng J.D, còn lại, việc đi thực tập không là một yêu cầu bắt buộc hoặc chương trình ôn tập cho bar exam (được gọi là bar review) cũng chỉ là tùy chọn, miễn là họ thi qua được bar exam. Năm đầu tiên của trường luật là năm học được đánh giá quan trọng nhất cho sự nghiệp một người muốn hành nghề luật sau này, bởi nó có thể quyết định nơi họ sẽ làm việc khi tốt nghiệp. Nguyên nhân cho điều này là vì chương trình phỏng vấn trong khuôn viên trường (OCI) thường diễn ra vào đầu năm thứ hai và tại thời điểm này, nhà tuyển dụng chỉ có thể có được GPA của năm đầu tiên. Đây là một bước được thực hiện khá sớm, cho thấy được môi trường năng động, cạnh tranh cao ở các trường luật Mỹ ngay từ năm học đầu tiên và cũng cho thấy rằng các cá nhân học luật được “săn đón” từ rất sớm kể cả khi họ chưa tốt nghiệp và có bằng J.D. 

Bên cạnh để áp dụng các vụ việc, án lệ vào giảng dạy, phương pháp tình huống “Socratic” do Trường luật Harvard khởi xướng được áp dụng tại hầu hết tất cả các trường luật.17 Đó là quá trình hỏi đáp, tranh luận liên tục giữa giảng viên và sinh viên xung quanh các vụ việc điển hình. Các câu hỏi xoay quanh tình tiết cơ bản, câu hỏi pháp lý, quy định pháp luật, lập luận của nguyên đơn, bị đơn, tòa cũng như bình luận về cách giải quyết của tòa. Các nguyên tắc pháp lý không được trình bày trực tiếp mà được tổng kết từ thảo luận tình huống. Điều này giúp sinh viên không chỉ tiếp xúc với các quy định mà còn làm quen thực tiễn, học hỏi được kỹ năng phân tích, lập luận của các bên và tòa án, nắm được trình tự tố tụng của vụ án, rèn luyện phản xạ nhanh nhạy, tư duy phản biện, phê phán, nhìn nhận vấn đề một cách đa chiều. Điều này rất phù hợp với môi trường pháp luật có sự thay đổi nhanh chóng như tại Mỹ 

Trong khi đó, tại Anh, đào tạo luật chủ yếu dưới dạng bài giảng và hướng dẫn. Giảng viên thường phác thảo vấn đề theo trật tự, giải thích sự phức tạp và cố gắng liên hệ với tình huống thực tế. Sinh viên được khuyến khích tham gia vào buổi thảo luận và diễn án để rèn luyện kĩ năng lập luận rõ ràng và thuyết phục. Trong giai đoạn đào tạo luật bậc cử nhân, sinh viên phải hoàn thành 6 môn học “cốt lõi” bao gồm: Luật Hiến pháp và Hành chính, Luật Hình sự, Hợp đồng, Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luật Đất đai và Công bằng, và Luật Tín thác. Tuy án lệ vẫn đóng vai trò trung tâm, nhưng với xu hướng pháp điển hóa mạnh mẽ hiện nay, luật thành văn cũng là một phần quan trọng được đưa vào chương trình đào tạo để nghiên cứu, thảo luận. Đào tạo luật tại bậc đại học tuy không dạy sinh viên tất cả các kỹ năng cần thiết để hành nghề luật nhưng họ vẫn được dạy về kỹ năng và đạo đức hành nghề luật sư.

Đối với đào tạo luật sư tranh tụng, khóa học tại trường dòng (Inns of Court) chủ yếu tập trung việc học quy tắc về bằng chứng, soạn thảo lời biện hộ và hoàn thiện kỹ năng biện hộ. 

Như vậy ở Anh, sinh viên cần nắm vững các quy định pháp luật, các học thuyết pháp lý rồi mới được đào tạo về kỹ năng hành nghề. Điều này dẫn tới khác biệt cơ bản khi tại Mỹ sinh viên được dạy để đủ khả năng tự liên kết, tìm ra quy luật, quy tắc từ những tình huống thực tiễn (và cả giả định), từ đó 02 phần kiến thức lý thuyết và thực hành đều được đào tạo đồng thời mà vẫn đảm bảo chất lượng. 

Trên cơ sở nghiên cứu, so sánh, đánh giá, tiểu luận thu được một số kết quả như sau: 

Thứ nhất, đào tạo luật tại Anh và Mỹ vừa có những tương đồng và khác biệt điển hình do tuy cùng chung hệ thống luật Common Law nhưng mỗi bên có mô hình đào tạo luật của riêng mình 

Thứ hai, những điểm tương đồng nổi bật bao gồm vai trò quan trọng của án lệ trong đào tạo luật, tuyển sinh đầu vào khắt khe, kĩ càng và chi phí đào tạo luật tốn kém Thứ ba, những điểm khác biệt nổi bật để phân biệt đào tạo nghề giữa Anh và Mỹ có thể kể đến lịch sử đào tạo luật, mục đích của đào tạo luật, phương pháp và chương trình đào tạo, vấn đề về bằng cấp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1) Đại học luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật so sánh, NXB Công an nhân dân. 

2) Nguyễn Bích Thảo (2016), Một số kinh nghiệm đào tạo Luật ở Mỹ và gợi mở cho Việt Nam, tham luận tại Hội thảo về đổi mới đào tạo và nghiên cứu Luật, Khoa Luật, ĐHQGHN. 

3) Mac Sithigh, D., & Siems, M. (2017). Why Do We Do What We Do? Comparing Legal Methods in Five Law Schools Through Survey Evidence trong Rethinking Legal Scholarship: A Transatlantic Dialogue (pp. 31-83). Cambridge University Press. 

4) Byse (1986), Fifty Years of Legal Education, 71 IowA L. REV. 

5) Diamond (1985), Lawyer Competency and Bar Admissions, The Role of the Law School and the Role of the Profession, trong Legal education in the United Kingdom and the United States: An overview 2. 

6) Rodrigo Sadi (2017-2018), Legal Education and the Civil Law System, 62 N.Y.L. SCH. L. REV. 165. 

7) Fletcher, Roland (2016). Legal education and proposed regulation of the legal profession in England and Wales: a transformation or a tragedy?, Law Teacher, 50(3) pp. 371–385. 

8) Tạp chí Loyola of Los Angeles International and Comparative Law Review số 13 (2/1/1991), Legal Education in the United States and England: A Comparative Analysis

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Phân tích các điều kiện đảm bảo cho pháp luật đi vào đời sống.

Luật pháp ra đời được coi là thành tựu đại diện cho một xã hội văn minh, được dùng để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội nên pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất giúp Nhà nước quản lý xã hội. Tuy nhiên, nói cho cùng pháp luật cũng là sinh ra từ cuộc sống, được con ngươi tạo ra để phục vụ con người, vì vậy, để pháp luật đi vào đời sống một cách hài hòa vẫn luôn là một bài toán khó. Tùy từng hoàn cảnh, tùy từng trường hợp mà pháp luật được áp dụng để vừa đảm bảo công bằng, vừa được sự đồng thuận của người dân.

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT

I. Pháp luật là gì

1. Khái niệm

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng nhất định.

Sở dĩ pháp luật có tính bắt buộc chung vì pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện thống nhất. Tính bắt buộc chung thể hiện ở chỗ:
+ Việc tuân theo các quy tắc pháp luật không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của mỗi người. Bất kỳ ai dù có địa vị, tài sản, chính kiến, chức vụ như thế nào cũng phải tuân theo các quy tắc pháp luật.
+ Nếu ai đó không tuân theo các quy tắc pháp luật thì tùy theo mức độ vi phạm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp tác động phù hợp để đảm bảo thực hiện đúng các quy tắc đó.
+ Tính quyền lực Nhà nước là yếu tố không thể thiếu, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện.

Nhà nước sẽ thừa nhận những tập quán trong xã hội bằng cách pháp điển hóa, ghi nhận trong luật thành văn.

2. Đặc điểm

* Pháp luật mang tính quyền lực của Nhà nước:

Đây là đặc điểm riêng có của pháp luật mà không một công cụ điều chỉnh nào khác có. Để thực hiện việc tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội, nhà nước cần có pháp luật. Các quy định pháp luật có thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự sẵn có trong xã hội như đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo… Với tính cách là những quy tắc xử sự, phảp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho phép của nhà nước đối với hành vi ứng xử của các chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép người dân được làm gì, không cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào… Với quyền lực của mình, nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức thực hiện pháp luật, yêu cầu các cá nhân, tổ chức trong xậ hội phải thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh. Khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo vệ pháp luật, trừng phạt người vĩ phạm, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

* Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến:

Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những hình thức xác định, có kết cấu loorrich rất chặt chẽ và được đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã làm cho quy định pháp luật có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để các chủ thể (tổ chức, cá nhân) thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự liệu.

Pháp luật mang tính băt buộc chung, các quy định pháp luật được dự liệu không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan. Xuất phát từ vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội (tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội), nên pháp luật là bắt buộc đối với tất cả, việc thực hiện pháp luật

* Pháp luật có tính hệ thống:

Pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội bằng cách tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm cho quan hệ phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhaú, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.Cách ngành luật có mối quan hệ với nhau, hỗ trợ lần nhau

* Pháp luật có tính xác định về hình thức:

Pháp luật được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ở dạng thành văn, các quy định của pháp luật được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng, chung chung, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên toàn xậ hội.

3. Vai trò của pháp luật

Đối với mỗi chủ thể pháp luật sẽ thể hiện các vai trò khác nhau:

Với Nhà nước: Pháp luật được xem là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý tất cả các vấn đề trong xã hội.

Với xã hội: Pháp luật đã thể hiện được vai trò trong việc đảm bảo sự vận hành tạo lập và duy trì mối quan hệ bình đằng trong cộng đồng.

Với công dân: Pháp luật đóng vai trò quan trọng là phương tiện để bảo về quyền lợi hợp pháp của mình.

II. Pháp luật dân chủ

Pháp luật chỉ mang tính tương đối, một hệ thống pháp luật hoạt động hiệu quả trong đời sống của nhân dân chính là pháp luật vì nhân dân, là pháp luật dân chủ. Hệ thống pháp luật phải đáp ứng đúng các điều kiện để thực sự dân chủ sẽ là nền tảng, là chìa khóa để đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn. Vậy, để có thể đi vào đời sống thì pháp luật cần có những điều kiện sau đây:

Thứ nhất, pháp luật phải có nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng, không chỉ dừng lại ở việc góp ý, nêu quan điểm mà nhân dân phải nắm giữ được quyền lập pháp thông qua các đại biểu đại diện cho quyền lợi của nhân dân.

Thứ hai, ngăn ngừa sự lạm quyền, độc đoán, chuyên quyền của các cơ quan nhà nước, thừa nhận và bảo vệ nguyên tắc phân quyền, phối hợp và kiểm soát quyền lực Nhà nước.

Thứ ba, pháp luật dân chủ là pháp luật vì con người, nội dung và bản chất pháp luật dân chủ là đề cao giá trị con người,  hoạt động của các Cơ quan Nhà nước phải tuân thủ pháp luật nhueng không được quá cứng nhắc dẫn đến xâm hại các quyền cơ bản của con người hay công dân

Thứ tư, quy định rõ quyền, nghĩa vụ của công dân chính là quyền, nghĩa vụ của Nhà nước(mang tinh chất đối xứng), thể hiện rõ quyền con người, quyền công dân chỉ có thể hạn chế trong trường hợp khẩn cấp, đặc biệt vì lý do Quốc phòng an ninh, sức khỏe cộng đồng,…

CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHO PHÁP LUẬT ĐI VÀO ĐỜI SỐNG

1. Pháp luật phải khách quan

Nhà làm luật không tự làm ra luật, họ chỉ ghi nhận những quy luật phát triển của xã hội bằng những ký tự được gọi là quy phạm pháp luật. Bất luận trong khía cạnh nào, pháp luật cũng là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức tồn tại xã hội rồi đưa ra các quy tắc xử sự chung (pháp luật). Do vậy, quá trình xây dựng pháp luật phải phản ánh được những yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của các quy định pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối với đời sống xã hội.

Để đảm bảo nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật thì trước khi bắt tay vào xây dựng pháp luật cần nghiên cứu sâu sắc thực tiễn xã hội, các quá trình kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý xã hội; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; vấn đề dân tộc và sắc tộc… thông tin từ việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở tốt để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp. Ngoài ra còn phải nghiên cứu thực tiễn pháp lý trước đó như thực tiễn quản lý, thực tiễn xét xử, hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong xã hội…

Mặt khác nguyên tắc khách quan còn đòi hỏi phải luôn đặt các quy định pháp luật trong mối liên hệ với sự phát triển về mọi mặt của xã hội và làm sao để xây dựng được các quy định pháp luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước. Các dự án luật phải được nhiều cơ quan tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, đặc biệt là cần có nhiều phương án để cho các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn. Sau khi đã có phương án điều chỉnh cần phải có sự thẩm định về các mặt kinh tế xã hội, khoa học…, nếu thực hiện tốt nguyên tắc này hoạt động xây dựng pháp luật sẽ mang lại hiệu quả cao.

Khi xây dựng pháp luật luôn phải chú ý để làm sao các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trên thực tế. Sự phù hợp với các điều kiện thực tế (về vật chất, kỹ thuật, tổ chức…) bảo đảm cho quy định pháp luật có thể thi hành được trên thực tế. Nếu quy định pháp luật không phù hợp với thực tế thì nó sẽ khó được thi hành trong thực tế hoặc được thi hành nhưng kém hiệu quả. Nội dung các quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao có kết cấu chặt chẽ, logic, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại[1]. Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các quy phạm pháp luật cũng tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Để có thể đưa pháp luật đi vào đời sống một cách có hiệu quả thì chất lượng các văn bản pháp luật phải được xây dựng đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.

Ngoài ra, pháp luật phải chứa đựng các giá trị tiến bộ, dân chủ, nhưng phải phù hợp với các điều kiện kinh tế-văn hóa, chính trị-xã hội của đất nước. Đây là lí do vì sao pháp luật phải liên tục thay đổi, các VBPL cần phải sửa đổi, bổ sung các điều luật đã không còn áp dụng được trong thực tiễn nữa.

2. Pháp luật phải công khai

Việc công khai quá trình xây dựng pháp luật là cần thiết trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước. Cần quán triệt tinh thần là xây dựng pháp luật không chỉ là công việc của nhà nước mà còn là công việc của toàn xã hội, nên cần phải để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Không chỉ bảo đảm sự công khai còn phải bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xây dựng pháp luật. Tất cả các công đoạn, quy trình của quá trình xây dựng pháp luật, các nguyên tắc xây dựng pháp luật đều cần phải được quy định rõ ràng, rành mạch.

Trước khi muốn người dân học và làm theo pháp luật, thì phải công khai cả quá trình và kết quả của quá trình xây dựng pháp luật, để nhân dân có thể có cái nhìn khách quan hơn đối với mỗi vấn đề được đề cập đến. Dân biết dân mới kiểm tra và đánh giá được còn những bất cập nào, vì hơn ai hết họ là người chịu sự tác động của pháp luật. Từ đó có thể nâng cao được hiệu quả khi đưa pháp luật vào đời sống cũng như khiến người dân ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình.

3. Cơ chế bảo vệ pháp luật hiệu quả

 Không khó để nhận ra tình trạng lạm dụng quyền lực Nhà nước hiện nay như ban hành văn bản vượt quá thẩm quyền, khiến cho việc áp dụng pháp luật trở nên khó khăn và không đảm bảo tính công bằng, minh bạch. Do đó, cần phải có những cơ chế để bảo vệ pháp luật để pháp luật được thực thi nghiêm túc, chuẩn mực, đúng đắn, xã hội mới thượng tôn pháp luật, tránh được tình trạng “Pháp luật từng địa phương”, “Pháp luật riêng của từng vùng, ngành” tránh được sự chồng chéo, sai phạm ở nội dung và hình thức các loại văn bản pháp luật.

Ngoài ra, Luật pháp thì không thương lượng, có lỗi sẽ phải bị xử phạt, không thể có những trường hợp nếu có người phạm luật rồi bị phạt, có khi nào vì nghèo lại miễn phạt, các cơ chế xử phạt cần được áp dụng nghiêm minh và triệt để hơn nữa để người dân không xảy ra tình trạng coi thường pháp luật để đến mức tái phạm 1-2 lần, từ đó pháp luật đi vào đời sống một cách đúng đắn và nghiêm minh hơn.

4. Ý thức của các chủ thể tham gia pháp luật

* Ý thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ trong Cơ quan Nhà nước:

Thực hiện hoạt động giám sát một cách tích cực thông qua việc phản ánh đầy đủ các ý kiến của cử tri và hoạt động chất vấn của đại biểu. Đặc biệt quan tâm đến việc giám sát các chương trình mục tiêu Quốc gia mà Nhà nước đã ban hành (chương trình xây dựng nông thôn mới; chương trình giảm nghèo bền vững) để các chương trình đó thực sự mang lại hiệu quả, góp phần vào việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

 Tham gia thực hiện tốt công tác lập pháp, vận dụng thực tiễn thi hành pháp luật vào cuộc sống; lắng nghe những quan điểm khác nhau, phân tích lựa chọn thông tin, cân nhắc đánh giá các dự luật để tham gia thảo luận góp ý và biểu quyết có chất lượng các dự án luật, để luật ban hành ra sẽ đi vào cuộc sống, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân. Đồng thời tham gia một cách có trách nhiệm trong góp ý, thảo luận, biểu quyết các vấn đề quan trọng của đất nước mà Quốc hội bàn bạc, quyết định để các quyết định đó thực sự hợp lòng dân và mang lại lợi ích cho nhân dân.

Thực tế chứng minh chúng ta đã làm rất tốt thông qua mô hình PBGDPL: trong năm 2020, nhiều cơ quan, đơn vị đã đổi mới, xây dựng các mô hình PBGDPL hiệu quả như: các cấp hội phụ nữ tỉnh thành lập gần 200 tài khoản Facebook để giới thiệu hoạt động của hội và tuyên truyền pháp luật; Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh tổ chức tuyên truyền cho hành khách xuất nhập cảnh, lái xe, chủ hàng và Nhân dân khu vực biên giới, cửa khẩu được 2.500 lượt người, cấp phát 3.500 tờ rơi, tờ gấp tuyên truyền pháp luật bằng hai thứ tiếng (tiếng Việt Nam và tiếng Trung Quốc); huyện Bình Gia đa dạng hình thức hưởng ứng ngày Pháp luật Việt Nam…[2]

* Ý thức người dân:

Rõ ràng pháp luật đi vào đời sống thì người dân chính là chủ thể chịu tác động trực tiếp từ pháp luật, do đó, việc nâng cao ý thức người dân về pháp luật là một việc làm vô cùng quan trọng và mang tính lâu dài. Như đã đề cập ở trên, pháp luật chỉ mang tính tương đối, tức là trong mỗi hoàn cảnh, mỗi giai đoạn pháp luật đều được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với điều kiện xã hội-kinh tế thời điểm đó, tương tự người dân cũng vậy, luôn luôn phải được trang bị cho bản thân những kiến thức cơ bản về pháp luật, giữ những giá trị tiến bộ của pháp luật và không dập khuôn theo những quy định cũ.

Trên thực tế, khi có những vướng mắc liên quan đến pháp luật, người dân luôn có tâm lý sợ, ngại và lúng túng. Đặc điểm văn hóa này được hình thành do nhiều yếu tố, nhưng không thể phủ nhận, nhiều người trong chúng ta ngại học, ngại tìm hiểu, dẫn đến không hiểu và không muốn dùng đến luật pháp. Vấn đề lựa chọn “kênh” pháp lý để giải quyết các tranh chấp phần lớn người dân chưa quen. Bởi thế, thay vì dùng đến pháp luật, nhiều người đã chọn cách tự xử lý, tự giải quyết một cách trái pháp luật. Thậm chí, tình trạng “tự xử” bạo lực kiểu “luật rừng” thay cho luật pháp rất đáng lo ngại.  Vì vậy, để pháp luật phát huy tốt vai trò điều chỉnh các mối quan hệ của nó thì người dân phải làm quen, phải tìm hiểu, phải học. Chúng ta cần tiếp tục quan tâm, triển khai giảng dạy, tuyên truyền pháp luật một cách hệ thống đến mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Tùy vào từng cấp học nhưng pháp luật cần được giáo dục, giảng dạy phổ biến trong các nhà trường. Mọi người dân, dù ở lĩnh vực nào, điều kiện ra sao cũng phải được thường xuyên tiếp cận, phổ biến những kiến thức này. Nâng cao trình độ hiểu biết luật pháp thông qua tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân luôn là thiết yếu trong xã hội. Mỗi chúng ta cần phải học luật để hành động theo luật.

Việc pháp luật đi vào đời sống người dân có hiệu quả hay không phản ánh đúng bản chất pháp luật và chất lượng của hệ thống pháp luật. Đương nhiên, một hệ thống đảm bảo tính khách quan, khả thi, công khai, minh bạch kết hợp với ý thức cuẩ người dân lẫn các nhà làm luật sẽ là một hệ thống pháp luật chuẩn mực để nhân dân có thể tin tưởng và chấp hành làm theo. Tuy nhiên, đối với việc này còn nhiều khó khăn và hạn chế. Vì vậy, tuyên truyền và nâng cao ý thức cũng như kiến thức cho người dân sẽ luôn được đặt lên hàng đầu trong công cuộc đi tìm lời giải đáo cho câu hỏi: “Làm thế nào để đưa pháp luật vào đời sống?”


[1] http://sotuphapqnam.gov.vn/index.php/2017-03-13-06-49-51/781-tieu-chi-xac-nh-cht-lng-ca-h-thng-phap-lut

[2] https://baolangson.vn/phap-luat/334387-de-phap-luat-di-vao-cuoc-song.html

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Truyền thông quốc tế, một vài nét lý luận về Đặc điểm, chính sách, xu thế nghiên cứu. Bài tiểu luận nhằm mục đích nghiên cứu về 3 vấn đề chính: 

  • Truyền thông quốc tế giai đoạn Chiến tranh Lạnh đến nay; 
  • Chính sách truyền thông đối ngoại của Việt Nam: 
  • Xu thế nghiên cứu Truyền thông quốc tế như một ngành khoa học. 

Trong thế kỷ XXI, hoạt động thông tin không giới hạn trong khuôn khổ quốc gia dân tộc mà được trao đổi một cách có tổ chức giữa các quốc gia. 

Truyền thông quốc tế như một dòng chảy độc lập và diễn ra trong bối cảnh kiểm soát nghiêm ngặt hơn truyền thông nội bộ. Thời kỳ đối đầu gay cấn nhất, truyền thông quốc tế không biến mất mà ngược lại còn phát triển mạnh mẽ hơn, đồng thời là một lực lượng trung tâm, ngay cả khi nó không xuất hiện trong một hình thức trực tiếp. Ví dụ, tác động của phim ảnh hay văn hóa đại chúng. 

Nhận thức đúng về TTQT, có một chiến lược phát triển bài bản về TTQT sẽ đưa TTQT trở thành lĩnh vực hữu hiệu để trao đổi thông tin giữa các quốc gia, dân tộc, văn hóa hoặc các nhóm người, các cộng đồng, kể cả ở cấp quốc tế và ở cấp độ trong nước. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng và to lớn trong quá trình xây dựng đất nước và tạo ra bản sắc văn hóa riêng biệt. Với phần lớn các vấn đề trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, kiểm soát vũ khí và chi tiêu quân sự, các vấn đề địa chính trị, chính sách đối ngoại,.. thì thông tin đóng một vai trò rất quan trọng, vì vậy TTQT càng đáng được lưu tâm và coi trọng. 

Để có những bước tiến mới trong việc lý giải các vấn đề đặt ra, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và tổng kết để có những cơ sở khoa học hơn nữa trong ngành truyền thông quốc tế. 

CHƯƠNG I : ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ TỪ GIAI ĐOẠN CHIẾN TRANH LẠNH CHO ĐẾN NAY 

1. Giai đoạn Chiến tranh Lạnh : 

Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, giữa bối cảnh một Châu Âu bị tàn phá và suy yếu trong hệ thống quốc tế với vai trò lu mờ của Anh, Pháp và một nước Đức đổ nát trên bờ vực bị chia cắt; Nhật Bản đầu hàng và chịu kiểm soát quốc tế về quân sự; Ý được kiến tạo lại nhà nước và thể chế dân chủ. 

Trong khi đó, Mỹ và Liên Xô nổi lên với vai trò là siêu cường thế giới, giàu có và hùng mạnh. Cả hai quốc gia này nhanh chóng nắm quyền chi phối toàn bộ hệ thống chính trị quốc tế1. Tuyên truyền thông qua truyền thông trong Chiến tranh lạnh đã được ưu tiên đến mức tối đa với ba lý do chính2

Thứ nhất, truyền thông là các kênh không chỉ truyền tải thông tin, mà còn nhân rộng các ý tưởng, hình mẫu thông qua nhiều mô hình và hình thức khác nhau. Nói cách khác, tuyên truyền là một vectơ mang ý thức hệ, thuyết phục bằng ý tưởng, phi bạo lực, song cũng hiệu quả như thuyết phục bằng vũ lực; – Thứ hai, thông tin mang tính phi vật chất và dễ thẩm thấu, hòa lẫn, không biết đến biên giới và giới hạn, có thể len lỏi khắp nơi cả về phạm vi địa lý lẫn xã hội, giữa các tầng lớp công chúng, từ nước này qua nước kia mà khó có khả năng ngăn chặn; 

Thứ ba, thông qua các chương trình truyền thông, nhất là các chương trình trên đài phát thanh có tính chất giải trí, các quốc gia dễ che đậy mục đích tuyên truyền, gây ảnh hưởng đến công chúng nước ngoài. 

Bước vào Chiến tranh lạnh, cả hai siêu cường đều tin vào mô hình xã hội và hệ tư tưởng mà mình theo đuổi và quyết tâm giành thắng lợi. Nhưng, triết lý tuyên truyền được lựa chọn không giống nhau. Mỹ xây dựng tuyên truyền thành khoa học, Liên Xô sử dụng tuyên truyền như một nghệ thuật. Nhìn chung, một trật tự thế giới đã được hình thành sau thế chiến II, đó là trật tự thế giới của Chiến tranh Lạnh với hai hệ quan điểm: – Chủ nghĩa cộng sản; 

– Chủ nghĩa tư bản 

Tuyên truyền của Liên Xô : 

Trong những năm tháng của Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã thành lập Ủy ban Thông tin Cộng sản nhằm tổ chức tuyên truyền trên toàn thế giới. 

TASS (Telegraphone Agenstvo Sovietskovo Saiutza) là nguồn tin chính của cả khối Đông Âu và cả những nước thuộc thế giới thứ ba lúc bấy giờ. 

Trọng tâm của chính sách tuyên truyền Xô Viết đưa ra là cuộc đối đầu ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc. Đối tượng tuyên truyền là quần chúng nhân dân thuộc các nước thuộc địa cũ thuộc thế giới thứ ba và tầng lớp nhân dân lao động tại các nước tư bản phát triển. 

Đến cuối những năm 1960, Đài phát thanh Moscow vẫn là đài phát quốc tế lớn nhất thế giới với lượng phát sóng và phổ bao phủ lớn gấp nhiều lần so với Hoa Kỳ. Nếu so sánh thời lượng phát sóng ra bên ngoài của nước Mỹ thì cũng gần như tương đương ( 3 đài chính VOA, Radio Liberty, Radio Free Europe ) tăng từ 497 giờ/ tuần lên đến 2060 giờ/ tuần kể từ 1950 – 1973. 

Phê phán “ chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô, Trung Quốc đã vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ 3 thế giới về phát thanh hải ngoại, tuyên truyền chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông. 

Tuy nhiên, bất chấp mạng lưới truyền thông của Liên Xô có hùng mạnh đến đâu thì các đài phát và trụ sở báo chí ( lấy tin ) lại rất hiếm khi đặt ở nước ngoài – trừ Habana Radio ( Cuba ). Bởi vậy, Liên Xô thường gặp vấn đề bị nhiễu sóng và phá sóng; trong khi đó lại không thường xuyên xảy ra đối với hệ thống radio của phương Tây. 

Tuyên truyền của Hoa Kỳ: 

VOA là một bộ phận không thể tách rời của nền ngoại giao Hoa Kỳ thời kì Chiến tranh thế giới lần thứ II và suốt cả thời gian chiến tranh lạnh. VOA, RL, RFE và American Forces Network (AFN) đều do nhà nước tài trợ nhưng VOA là cơ quan ngôn luận chính thức của Hoa Kỳ và có trách nhiệm về phát ngôn, sử dụng quan điểm của ban biên tập của đài ,trong khi BBC World Service sử dụng các nguồn và các quan điểm bình luận khác nhau. Do đó, giới phân tích cho rằng, quan điểm hạn hẹp và không thật đáng tin cậy với tư cách là một thực thể truyền thông quốc tế. 

Cuộc vận động của VOA ủng hộ Tổng thống Truman sau sự kiện chiến tranh Triều Tiên năm 1950 đã làm tăng nhu cầu sử dụng radio với tư cách công cụ tuyên truyền ( ở Mỹ ). Đây là cuộc tập dượt về phương tiện truyền thông radio lớn nhất với hàng triệu cuộc phỏng vấn trực tiếp lên sóng để nước Mỹ thử nghiệm nhân rộng các cuộc xung đột kế tiếp diễn ra ở châu Phi, châu Á và Mỹ La tinh. 

Năm 1951, Tổng thống Truman xây dựng hẳn một Ban Tâm lý chiến trực thuộc Uỷ ban An ninh Quốc gia Hoa Kỳ nhằm thiết kế các chương trình và tư vấn cho các hoạt động tuyên truyền quốc tế chống cộng sản. 

VOA điều phối mạng truyền thông toàn cầu của Hoa Kỳ, nó có các trạm phát thanh ở khắp nơi để tuyên truyền ý tưởng về cái gọi là “ lối sống Mỹ” cho thính giả quốc tế. Những trạm chính yếu của mạng lưới này chịu sự kiểm soát của Washington ( trạm ở Bangkok là cho khu vực Đông Nam Á; trạm Poro và Tinnang ở Philippines là cho khu vực Trung Quốc, Đông Nam Á; trạm Colombo cho khu vực Nam Á; Tangier ở Morocco cho khu vực Bắc Phi; trạm Rhodes ở Hy Lạp là cho khu vực Trung Đông ..), các trạm tương tự như vậy mọc lên như nấm và chúng thực thi một chiến lược tuyên truyền toàn cầu của Mỹ. Việc đặt các trạm phát thanh sao cho sóng mạnh và không bị nhiễu, do đó thường nằm sát khu vực đối tượng tuyên truyền. Trong nhiều trường hợp, chúng có thể là những đài phát chuyển tiếp hoặc bí mật. 

Tranh giành ảnh hưởng đối với thế giới thứ ba: 

Một cuộc chiến chính yêu khác nhằm chinh phục “trái tim và khối óc” của nhân dân trong thời kỳ chiến tranh lạnh diễn ra ở địa bàn thuộc thế giới thứ ba, nơi xuất hiện hàng loạt quốc gia thoát khỏi chế độ thuộc địa. Khi đó, Liên Xô đã nhận thức được rằng, bản chất của phong trào thuộc địa là phản kháng và chống lại phương Tây, đó cũng chính là cơ hội tốt để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. 

Nhằm tranh giành ảnh hưởng với làn sóng chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô, các đài Mỹ, Pháp.. cũng phủ sóng mạnh mẽ ở khu vực châu Phi và Trung Đông. Đáng chú ý là cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho Mỹ đầu tư đáng kể vào mạng lưới phát thanh ở Đông Nam Á với các trụ sở đặt tại Thái Lan, Philippines 

Với nguồn cung cấp năng lượng – dầu mỏ cho nền kinh tế thế giới; thêm vào đó, các chế độ chính trị ở khu vực này có xu hướng tôn giáo và bảo thủ nên khu vực Trung Đông cũng rất được phương Tây quan tâm trong thời kì chiến tranh lạnh. Ở khu vực Mỹ Latinh, Mỹ cũng tăng cường mạng lưới tuyên truyền qua sóng phát thanh sau cuộc cách mạng vô sản Cuba năm 1959, nhằm ngăn chặn làn sóng ý thức hệ cộng sản lan tỏa ở khu vực này. 

Tuy nhiên, các nước phương Tây không chỉ hướng tuyên truyền vào mục tiêu ý thức hệ mà còn quan tâm đến các mục tiêu khác như kinh tế và văn hóa. Các đài phát thanh phương Tây cũng đưa được một lượng thông tin lớn và phong phú trên nhiều lĩnh vực cho dân chúng thuộc thế giới thứ ba. 

Nhu cầu về một trật tự truyền thông quốc tế mới : 

Trước sự tranh giành ảnh hưởng của hai luồng ý thức hệ, các nước thuộc thế giới thứ ba đã lựa chọn thái độ trung lập để tranh thủ phát triển và phong trào Không liên kết (NAM) đã ra đời. Việc hình thành khối các nước không liên kết này đã làm chuyển dịch đáng kể chiến lược truyền thông quốc tế. Bản đồ truyền 7

thông quốc tế đang từ lưỡng cực “Đông – Tây” bắt đầu có xu hướng chuyển thành phân hoá theo tuyến “Bắc – Nam” 

Giai đoạn này đã xuất hiện thuật ngữ mới được thảo luận rộng rãi trong giới truyền thông quốc tế: “Trật tự thế giới mới về thông tin và truyền thông” – NWICO/ New World Information and Communication Order). 

Mốc đánh dấu về trật tự mới này là hội nghị 1975 ở Helsinki về an ninh và hợp tác châu Âu với khẩu hiệu “tự do hơn nữa thông tin và phát tán rộng rãi tất cả các loại tin tức”. 

Theo quan điểm của “trật tự mới” này thì “trật tự cũ” đang tạo ra sự bất bình đẳng trong phát triển. Trật tự thông tin cũ hàm chứa mô hình phụ thuộc rất rõ rệt đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của các nước đang phát triển. Nhìn chung, nhu cầu về một trật tự thông tin mới là hết sức cấp thiết và rõ ràng. Nó được thể hiện ở những điểm chính yếu sau: 

i. Sự mất cân bằng về việc sở hữu công nghệ thông tin cũng như sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, quân sự 

ii. Cấu trúc phụ thuộc của cái sau này vào cái đầu tiên được tạo nên bởi xã hội giàu thông tin có được vị thế và quy định các xã hội nghèo thông tin. 

iii. Quá trình lan tỏa thông tin trên toàn cầu không đi theo cấu trúc chiều ngang và các công ty xuyên quốc gia của phương Tây nắm giữ luật lệ các cuộc chơi. 

iv. Thông tin được các phương tiện truyền thông xuyên quốc gia xem như một loại “hàng hóa” và sức mạnh cho phép chúng thiết lập các luật lệ thị trường trên toàn cầu. 

v. Trật tự thông tin hiện hành là một bộ phận không tách rời của hệ thống ứng xử bất bình đẳng quốc tế – một thứ biến thái của chủ nghĩa thực dân mới. 

Như vậy, các tổ hợp truyền thông quốc tế lớn được trang bị thông tin một cách tự động. Ngoài ra, khi thông tin được phương Tây đưa ra thế giới thì nó đã bị thiết định, cắt gọt và chỉnh sửa theo cách nhìn nhận của các tổ hợp truyền thông quốc tế mà không phải quan điểm của chính nước cung cấp thông tin. 

Nhu cầu về một trật tự thông tin quốc tế mới (NWICO) được đặt ra và trở nên mãnh liệt vào những năm 1973-1976. UNESCO đã phải ra tuyên bố năm 1978 về truyền thông đại chúng. Cuối năm đó, Liên Hợp Quốc cũng đã thông qua nghị quyết về NWICO. 

Hệ quả là năm 1977, một Ủy ban nghiên cứu về các vấn đề truyền thông của LHQ đã được thành lập – The MacBride Commission. Năm 1980, Ủy ban này đưa ra 82 khuyến nghị, đáng chú ý là “dân chủ hóa truyền thông” và cũng đưa ra đề nghị: Phải có sự hiện diện của các đại biểu đến từ những giai tầng khác nhau trong xã hội và cơ cấu quản lí truyền thông. 

MacBride Commission cho rằng, tự do thông tin chỉ có đối với những “kẻ mạnh” trong hệ thống truyền thông thế giới, bên cạnh đó cũng chỉ ra rằng, lợi dụng chính sách mở cửa và tự do thông tin, một số tập đoàn và quốc gia đã làm xói mòn sự ổn định xã hội, vi phạm đến chủ quyền và an ninh của các quốc gia khác, quấy rối sự phát triển của quốc gia đó.. 

Với tư cách là những văn bản quốc tế đầu tiên đưa ra cái nhìn toàn diện về những vấn đề của truyền thông quốc tế tuy nhiên các hãng truyền thông lớn như The World Press Freedom Committee, AP, UPI, American Newspaper Publishers Association… đã bày tỏ thái độ không đồng tình trước thái độ chống tư nhân hóa các phương tiện truyền thông và những cáo buộc liên quan đến hiệu ứng tiêu cực của quảng cáo đối với xã hội được nêu ra trong các tài liệu của MacBride Commission. 

Dựa trên các tài liệu này, UNESCO đã tổ chức một hội nghị toàn thể ở Belgrade năm 1980 và thông qua một nghị quyết về “một trật tự truyền thông quốc tế mới” với những nội dung cơ bản sau: 

– Xóa bỏ tình trạng mất cân đối và bất công về thông tin hiện nay; – Xóa bỏ những hiệu ứng tiêu cực do một số dạng độc quyền thông tin gây ra; 

– Dỡ bỏ những rào cản bên trong và bên ngoài đối với quá trình tự do hóa và phát tán ác dòng chảy thông tin và tư tưởng mang tính đối xứng; – Đa nguyên hóa các nguồn và các kênh thông tin; 

– Tự do in ấn và thông tin; 

– Quyền tự do cho các phóng viên và các nhà chuyên môn trong lĩnh vực truyền thông; 

– Thúc đẩy năng lượng truyền thông của các nước phát triển bằng cách tạo thực trạng của họ thông qua việc cung ứng thiết bị, đào tạo nhân sự, nâng cấp hạ tầng, thiết kế thông tin phù hợp với nhu cầu tâm lý; 

– Các nước phát triển cần phải tỏ rõ thiện chí trong việc giúp đỡ thực hiện các mục tiêu trên; 

– Tôn trọng tất cả các đặc thù văn hóa và quyền của các dân tộc trong việc thông tin cho thế giới biết về lợi ích, nguyện vọng và các giá trị văn hóa cũng như xã hội của họ; 

– Tôn trọng quyền của tất cả mọi người tham dự vào quá trình trao đổi thông tin quốc tế trên cơ sở bình đẳng, công bằng và cùng có lợi; – Tôn trọng các quyền của công chúng, các nhóm sắc tộc, xã hội cũng như các cá nhân trong việc tiếp cận các nguồn tin và tham dự tích cực vào quá trình truyền thông. 

Bất đồng quan điểm : 

Các nước phương Tây đứng đầu là Hoa Kỳ coi trật tự thông tin và truyền thông mới là mang “hơi hướng Xô Viết” vì nó thúc đẩy các nước thuộc thế giới thứ ba, kiểm soát truyền thông đại chúng thông qua hệ thống giám sát của nhà nước. Những nước này cho rằng, về lý thuyết, quan điểm của NIWCO là hoàn toàn đi ngược các giá trị tự do của phương Tây và nguyên tắc “dòng chảy tự do thông tin” đã được đề ra trước đó ; NIWCO cũng đã tạo điều kiện cho những kẻ độc tài ở các nước thuộc thế giới thứ ba cái cớ bóp nghẹt tự do truyền thông, đưa ra các hệ thống kiểm duyệt và ngăn chặn các phóng viên nước ngoài bằng các khẩu hiệu như “quyền tự quyết văn hóa”, “chống chủ nghĩa đế quốc truyền thông”.. 

Các thể chế thông tin của phương Tây đã mạnh mẽ đấu tranh chống lại bất cứ sự đổi thay nào trong trật tự thông tin toàn cầu. Điều mà các quốc gia độc tài ở thế giới thứ ba đã không cho phép giới truyền thông thực hiện vì lý do chính trị. 

Sự đổ vỡ của NWICO : 

Những năm 1979 đến cuối những năm 1980 có nhiều biến động lớn trên trường quốc tế: cách mạng Hồi giáo (1979) ở Trung Đông; Nga can thiệp vào Afghanistan.. Tổng thống Hoa Kỳ ở giai đoạn này – Ronald Reagan đưa ra quan điểm về giai đoạn mới của Chiến tranh Lạnh. Đây cũng là thời kì các chính sách của các cường quốc tư bản chủ nghĩa đối với các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba bây giờ đã chuyển hướng sang trao đổi và khuyến khích thương mại thuộc khu vực tư nhân thay vì viện trợ hay can thiệp quân sự để thúc đẩy phát triển. 

Trong lĩnh vực truyền thông quốc tế, Mỹ tỏ thái độ dứt khoát phản đối NWICO, MacBride Commission và UNESCO nói chung về những chính sách và đường lối mà các thể chế quốc tế này theo đuổi. Luận điểm mà Mỹ đưa ra là MacBride Commission đã trao quyền và tạo điều kiện để các chính phủ của các nước đang phát triển có cớ kiểm soát chặt chẽ hơn các phương tiện truyền thông đại chúng. 

Xu hướng giải điều tiết kinh tế và tư nhân hóa đối với truyền thông nói riêng và với kinh tế nói chung đã thể hiện rất rõ trong chính sách của các phe bảo thủ cầm quyền tại hai cường quốc là Mỹ và Anh. Đến lượt mình, những xu hướng này đã tác động mạnh đến chiều hướng phát triển của truyền thông quốc tế trong giai đoạn những năm 1980. Luận thuyết “các dòng chảy thông tin tự do” lúc này đã được gắn kết chặt chẽ với luận thuyết “thị trường tự do”. 

Đặc biệt, Tổng thống Reagan đã rất chú trọng đến sức mạnh chính trị của truyền thông, khi nêu ra những bài học kinh nghiệm của nước Mỹ về tuyên truyền trong những năm 1950; từ đó nhấn mạnh tính chất công cụ của truyền thông và thể hiện rõ ý định sử dụng truyền thông để truyền bá tư tưởng Mỹ trên khắp thế giới, đồng thời chống lại ý thức hệ của Liên Xô. 

Theo cách đó, ngoại giao công chúng đã được Mỹ thúc đẩy mạnh mẽ và rõ rệt chính là ở giai đoạn này. Ủy ban Thông tin quốc tế (IIC) của Hoa Kỳ đã lên kế hoạch để hỗ trợ các hành động quốc tế của Mỹ gắn với mục tiêu an ninh. Hàng loạt các dự án và chương trình truyền thông của IIC đã ra đời vào giai đoạn này. 

2. Giai đoạn kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay: 

Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, hai năm sau đó là sự tan rã của Đế chế Xô viết, kéo theo sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chiến trah Lạnh đã đi đến hồi kết thúc. Bức tranh chính trị thế giới đã đổi thay đáng kể. 

Năm 1989, Truyền hình đã có một ảnh hưởng rất đáng kể đối với sự sụp đổ chính trị ở các nước Đông Âu. Với chủ nghĩa tư bản, văn hóa cùng ý thức hệ của nó đã lan tỏa một cách khá hòa bình ở các nước này. 

Tháng 8 năm 1991, một sự kiện ở Moscow đã làm chấn động dư luận quốc tế vì nó đã đem lại cho các khán thính giả trên thế giới chứng kiến những thời khắc quan trọng nhất trong sự biến động chính trị, không chỉ có ý nghĩa với Liên Xô mà còn với cả sự tiến triển của nền chính trị thế giới – kết thúc chiến tranh Lạnh với sự sụp đổ của Đế chế Xô viết. Từ sau thời điểm này, giới truyền thông của khối Đông Âu đã bước vào kỷ nguyên của tự do thông tin và thị trường truyền thông. 

Trật tự lưỡng cực trên thế giới biến mất – chỉ còn lại một cực chiến thắng (Hoa Kỳ và các đồng minh), do đó cuộc chiến tuyên truyền trên mạng truyền thông quốc tế giữa hai cực cũng đã đi đến hồi kết – tuy nhiên những gì còn lại của hiện thực ấy là sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong truyền thông quốc tế. 

Trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến, các đài phát thanh của phương Tây ở châu Âu đã làm việc với công suất như chưa từng bao giờ có trước đó. Hòa đồng với sự tích cực của mạng truyền thông phương Tây là sự mở cửa hệ thống truyền thông nội địa các nước Đông Âu với sự nới lỏng kiểm duyệt của nhà nước đối với tự do ngôn luận. 

Bên cạnh những biến cố và chính sách chính trị, một nguyên nhân khác nữa thúc đẩy sự phát triển của truyền thông quốc tế ở giai đoạn này là sự phát minh và ứng dụng hệ thống truyền tín hiệu trực tiếp từ vệ tinh (DBS); cáp quang; kỹ thuật thông tin số và máy tính. 

Hai đặc điểm cơ bản của truyền thông quốc tế ở giai đoạn này là: Tư nhân hóa – định hướng theo thị trường; và hình thành nên một hạ tầng kỹ thuật cho truyền thông toàn cầu. 

Truyền thông quốc tế phát triển theo hướng tư nhân hóa và được dẫn dắt bởi thị trường hơn là bởi ý chí của các nhà nước . 

Những năm 1990 đã xuất hiện những thay đổi nền tảng trên trường chính trị quốc tế, những thay đổi ấy dẫn đến việc hình thành nên một hệ thống thể chế thương mại quốc tế định hướng cơ sở thị trường. Tình thế đó đã có ảnh hưởng mạnh đến truyền thông quốc tế. 

Truyền thông đang bước từ nhãn quan chính sách “lấy nhà nước làm trung tâm” sang nhãn quan “lấy thị trường làm định hướng”. Theo đó, không phải nhà nước kiểm soát và định hướng truyền thông theo các mục tiêu của nhà nước, trái lại, chính thị trường dẫn dắt định hướng phát triển của cái sau này theo các quy luật khách quan của nó ( chẳng hạn về lợi nhuận, chênh lệch giá cả, cung cầu..) 

Quan điểm này được chấp nhận và thực hiện trước hết là ở các cường quốc, thứ nữa là các thể chế quốc tế đa phương (UNESCO, ITU..). Tuy nhiên, đối với các nước độc tài, các nước kém phát triển, quá trình đó diễn ra khá chậm trễ và đôi khi còn bị cố tình ngưng trệ bởi những lý do chính trị. 

Việc nghiên cứu truyền thông từ giác độ nhà nước dưới hình thái “thông tin đối ngoại” của nước này đối với nước khác (quan hệ chính phủ – chính phủ) vốn rất phổ biến và mang tính truyền thống trước đó, mà ở đó các siêu cường thông tin dần bị thay thế bởi các nghiên cứu về những mạng truyền thông quốc tế ở cấp độ khu vực và toàn cầu, trong đó vai trò của nhà nước chỉ là một trong những tác nhân bên cạnh các tác nhân phi nhà nước như công ty, tổ chức phi chính phủ, các mạng xã hội, thậm chí là Netizen. 

Xu hướng hình thành nên một hạ tầng kỹ thuật cho truyền thông toàn cầu 

Bên cạnh quá trình giải điều tiết và tư nhân hóa, truyền thông cũng bị ảnh hưởng lớn lao đến từ các phát minh khoa học và công nghệ, đặc biệt là quá trình vi tính hóa và công nghệ số. Các tác nhân này đã hình thành nên hệ thống truyền thông vệ tinh. 

Có thể nói, chính nhờ sự tồn tại của một hạ tầng kỹ thuật là hệ thống vệ tinh, truyền thông đang được toàn cầu hóa, vì vậy, ý niệm về truyền thông quốc tế với tư cách là một hiện thực độc lập mới trở nên rõ ràng. 

Thông tin dưới hình thái số hóa thông tin qua các phương tiện truyền thông đến với hệ thống vệ tinh và từ đó phát tán khắp bề mặt trái đất. Đây thật là một cuộc cách mạng về truyền thông mà lịch sử trước đó chưa từng chứng kiến. 

Các nhà nghiên cứu nhìn nhận hạ tầng của truyền thông quốc tế hiện nay từ hai giác độ: “phần cứng” và “phần mềm”. Liên quan đến “phần cứng”, hệ thống này được cấu từ : 

– Mạng vệ tinh toàn cầu; 

– Mạng Internet với nền tảng do Mỹ phát triển và xây dựng;

– Hệ thống các đường truyền, thiết bị công nghệ đi kèm;

– Các chủ thể truyền thông; 

Trong khi đó, “phần mềm” bao gồm: 

– Các luật lệ truyền thông quốc tế ( công ước, hiệp định,..) – Các trình điều khiển chạy trên thiết bị truyền thông; 

– Các dòng thông tin; 

– Văn hóa của các chủ thể tham dự quá trình truyền thông; – Ngôn ngữ giao tiếp; 

– Năng lực kết nối, chia sẻ, phân tích ,.. của cả hai bên 

Truyền thông quốc tế được hình dung như một hiện thực độc lập tương đối trong quan hệ với các chủ thể là nhà nước thì : Quá trình xây dựng phần cứng và phần mềm của truyền thông quốc tế hiện nay diễn ra như thế nào? Ai là người đóng góp và ai có lợi nhất? là những câu hỏi mà các nhà nghiên cứu về truyền thông quốc tế hiện nay đang hướng đến giải đáp. 

CHƯƠNG II : CHÍNH SÁCH THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM 

1. Quá trình ra đời và phát triển của chính sách thông tin đối ngoại Việt Nam: 

Chiến lược thông tin đối ngoại Việt Nam là một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của nước ta những năm đổi mới. Sự nhận thức đúng đắn và kịp thời của Đảng về việc cung cấp thông tin đối ngoại đã thực sự là nền tảng để định hướng các hoạt động trong lĩnh vực này. 

Đảng và Chính phủ ta có ban hành nhiều văn bản quan trọng về công tác thông tin đối ngoại như: chỉ thị số 11/CT-TW về “đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”, Thông báo số 188/TB-TW về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới , Nghị quyết ĐH IX của Đảng (2001) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường công tác TTĐN,… Văn bản đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta là Chỉ thị số 11/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng (1992) về “đổi mới và tăng cường” công tác thông tin đối ngoại. Xét về nguyên nhân khách quan, thời điểm đầu những năm 1990 là thời điểm bất lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa vì một loạt mô hình XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ dẫn đến phong trào cộng sản, thoái trào, tạo điều kiện cho các lực lượng thù địch chế độ XHCN đẩy mạnh các hoạt động thông tin liên lạc, lừa bịp nhằm chống phá3. Đây là thời điểm vô cùng cần thiết để ta tiến hành thông tin đối ngoại về bản chất tốt đẹp của Nhà nước XHCN. Dù con đường tiến tới CNXH có nhiều khó khăn, thử thách nhưng chúng ta sẽ chứng minh với thế giới rằng Việt Nam đang bắt đầu công cuộc đổi mới và không lùi bước trước bất cứ thử thách nào. 

Ngoài ra đây cũng là lúc chúng ta cần củng cố và xây dựng niềm tin, sự đoàn kết, đồng lòng và ủng hộ trong nhân dân ta đối với sự nghiệp Đổi mới và con đường mà Đảng và Nhà nước đã chọn để không một lực lượng thù địch nào có thể làm chia rẽ sự đoàn kết nội bộ ấy. 

Sau hai cuộc chiến tranh dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam đã và đang bắt đầu công cuộc đổi mới trong thập kỉ đầu những năm 1990, Việt Nam không chỉ muốn các nước biết đến hình ảnh Việt Nam với tình thần dung cảm , ý chí kiên cường mà còn ở những khía cạnh khác như sự say mê, cần cù, sáng tạo… trong lao động, sự yêu thương và tinh thần đoàn kết của đồng bào, một Việt Nam thời kỳ đổi mới của sự năng động, của ý chí vươn lên, sẵn sàng cho hội nhập… 

Về những nguyên nhân chủ quan thì chúng ta chưa có sự chỉ đạo thống nhất, sắc bén, kịp thời về công tác TTĐN cũng như không có chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác TTĐN trong khi phương tiện, cơ sở vật chất kĩ thuật thiếu thốn. Rõ ràng là, công tác TTĐN của Việt Nam vẫn ở tình trạng yếu kém kéo dài cả về lực lượng, nội dung, hình thức thông tin. 

Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 26/04/2000 của Thủ tướng Chính phủ về “tang cường quản lý và đẩy mạnh công tác TTĐN” ra đời sau khi công tác TTĐN đã đạt được một số kết quả khả quan , Nhà nước đã dành ngân sách thích đáng cho TTĐN, đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thông tin viễn thông và kết nối mạng Internet, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất tăng cường, nhận thức của các cấp, các ngành có bước chuyển mới4. Điều này thể hiện sự phù hợp với xu thế vận dụng nguồn sức mạnh mềm trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa của thế giới nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, công tác TTĐN của ta vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của thời đại hội nhập hiện nay nên cần phải “đẩy mạnh” hơn nữa quá trình này. 

Đến Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế quản lý gồm 3 chương, 13 điều đã quy định và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể hơn cho các bộ ngành liên quan. Một điểm mới cho Quyết định này là trong phần “Quy định chung” đã chính thức đưa ra khái niệm về thông tin đối ngoại. Thông tin đối ngoại gồm hai chiều: chiều thứ nhất là thông tin về Việt Nam ra thế giới và chiều thứ hai chứa đựng thông tin về thế giới vào Việt Nam. Ngày nay, dường như không có sự phân biệt rạch ròi giữa nội dung thông tin trong nước và quốc tế. Trong nội dung thông tin về tình hình quốc tế có thể hiện thái độ, lập trường, quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế hay thể hiện cách ứng xử và giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Đồng thời, trong nội dung thông tin về tình hình tring nước cũng sẽ có những yếu tố khu vực và quốc tế có liên quan, tác động đến Việt Nam. Quyết định số 16 QĐ/TW ngày 27/12/2001 về thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện công tác này thống nhất và tập trung hơn. Trong kết luận số 16 – KL/TW ngày 14/02/2012 của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011- 2020” cũng chỉ rõ. 

2. Việc nắm vững vai trò và nội dung căn bản của chính sách thông tin đối thoại có ý nghĩa như thế nào? 

Công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là một phần không thể thiếu trong chiến lược thông tin để phục vụ lợi ích quốc gia, góp phần quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của đất nước. Công tác thông tin đối ngoại không chỉ dừng lại trong việc truyền và nhận tin tức một cách thụ động, mà còn bao hàm cả việc phân tích, đánh giá, phát biểu quan điểm và định hướng xử lý về các thông tin liên quan đến những sự kiện trong nước và quốc tế nhằm đạt tới những mục đích cụ thể về đường lối đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia. 

Dưới góc độ pháp lý, Điều 6 Nghị định 72/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại quy định: “Thông tin đối ngoại bao gồm thông tin chính thức về Việt Nam, thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam và thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam.” Trong đó, thông tin chính thức về Việt Nam là thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin về tình hình Việt Nam trên các lĩnh vực; thông tin về lịch sử Việt Nam và các thông tin khác5. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam6. Thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam là thông tin về tình hình quốc tế trên các lĩnh vực, về quan hệ giữa Việt nam với các nước và các thông tin khác nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng – an ninh giữa Việt Nam với các nước, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam7. Ngoài ra, thông tin đối ngoại còn bao gồm cả việc cung cấp thông tin giải thích, làm rõ, tức là những tư liệu, tài liệu, hồ sơ, lập luận nhằm giải thích, làm rõ các thông tin sai lệch về việt Nam trên tất cả các lĩnh vực8

Trong quá trình học tập tại Học viện Ngoại giao và nghề nghiệp tương lai, việc nắm vững vai trò và nội dung căn bản của chính sách thông tin đối ngoại sẽ hạn chế những thông tin sai lệch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Bên cạnh đó , còn dễ dàng trong việc phân tích, đánh giá, đưa ra quan điểm và định hướng xử lý về các thông tin liên quan đến những sự kiện trong nước và quốc tế nhằm đạt tới những mục đích cụ thể . 

CHƯƠNG III: SỰ CẦN THIẾT CỦA XU THẾ NGHIÊN CỨU TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ 

Thực tiễn và lý luận luôn song hành và hỗ trợ cho nhau để khám phá một ngành khoa học mới. TTQT cũng như vậy, trong những năm tới, các nhà khoa học và nghiên cứu TTQT tại việt Nam sẽ tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống các nguồn thông tin như: 

– Các tin tức và bình luận quốc tế trên các phương tiện truyền thông khác nhau (như các ấn phẩm in ấn, phát thanh, truyền hình và Internet); – Một số nguồn tin (như thông cáo báo chí và báo cáo báo chí, trong đó có nhiều nguồn thông qua truy cập trực tiếp từ Internet); 

– Các hình thức truyền thông trực tiếp của hợp tác quốc tế trong phạm vi mà họ đang mở để quan sát (ví dụ các cuộc tranh luận, các cuộc họp báo: mở cửa cho báo chí và công chúng); 

– Các văn bản hợp tác quốc tế. 

Các nghiên cứu về TTQT tại Việt Nam, gồm: 

i. Nghiên cứu về các bước cơ bản của việc tạo ra một không gian thông tin liên lạc toàn cầu duy nhất; 

ii. Phân tích các chiến lược cho chính sách thông tin đối ngoại của các cường quốc hàng đầu thế giới (Nga, Mỹ, Nhật Bản,..) và các nước khu vực (Trung Quốc, Hàn Quốc,..) 

iii. Phân tích các hoạt động của chính phủ và các phương tiện truyền thông trong lĩnh vực truyền thông quốc tế; 

iv. Xem xét những triển vọng cho sự phát triển của TTQT Việt Nam trong quá trình hình thành một không gian thông tin thống nhất của khu vực và quốc tế; 

v. Nghiên cứu về vấn đề xác định chủ đề của truyền thông toàn cầu và phân tích so sánh của các hoạt động thông tin của các tổ chức này. Mục đích là nghiên cứu về mô hình và đặc điểm của sự hình thành và phát triển của cộng đồng thế giới, từ đó đưa ra chiến lược thông tin phù hợp, phục vụ mục tiêu quốc gia. Đặc biệt chú ý đến chi tiết và phân tích toàn diện các cơ sở của chính sách đối ngoại của nước CHXHCN Việt Nam , vị trí và vai trò của nước ta trong TTQT hiện đại, cũng như xem xét các tính năng chính của các phương tiện truyền thông đại chúng, chính phủ và các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này. 

Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp nhận và lan truyền nhanh trong công chúng9

Truyền thông có tác động lớn đến các nhóm đối tượng lớn như sau:

Đối với chính quyền nhà nước: 

– Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính sách kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công chúng thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngoài ra chính phủ cũng nhờ truyền thông để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành các văn bản pháp lý. Nhờ truyền thông mà nhà nước điều chỉnh các chính sách quản lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng. 

– Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật được trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối tượng dân chúng trong xã hội.

Đối với công chúng: 

– Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn hóa xã hội, pháp luật trong và ngoài nước. Giúp người dân giải trí và học tập về phong cách sống những người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài trừ cái xấu. Truyền thông đóng vai trò trong việc tạo ra các xu hướng về lối sống, văn hóa, thời trang… 

– Ngoài ra truyền thông còn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng nói của mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. 

Đối với nền kinh tế: 

– Nhờ có truyền thông mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và dịch vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Truyền thông cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các công ty tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn 90% ngân sách marketing của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện truyền thông để quảng cáo sản phẩm và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ của họ; 

– Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một quốc gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế; – Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất. 

Với vai trò quan trọng truyền thông rất lớn đối với xã hội loài người, nghiên cứu truyền thông ra đời để giúp cho truyền thông đóng góp nhiều vai trò tích cực hơn là tiêu cực. Nghiên cứu truyền là các hoạt động nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đối với công chúng qua đó các nhà làm truyền thông có sự điều chỉnh về nội dung, hình thức và phương tiện truyền thông để tăng tính hiệu quả của việc sử dụng truyền thông đối với các vấn đề của xã hội.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Đánh giá các quy định pháp luật về chế độ thai sản.

Hiện nay tại một số doanh nghiệp trong và ngoài nước với đặc thù công việc thì đa phần sẽ là lao động nữ số lao động nữ, điều này có tác động sâu sắc tới vấn đề bảo hiểm thai sản.

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN 

1. Lý luận chung về chế độ bảo hiểm thai sản:

1.1. Khái niệm bảo hiểm thai sản: 

Chế độ bảo hiểm thai sản là một trong các chế độ của Bảo hiểm xã hội,bao gồm các quy định của Nhà nước nhằm bảo đảmthu nhập bị giảm và chi phí tăng lên. Điều này không chỉ đảm bảo sức khỏe cho người lao động nữ nói riêng trong quá trình mang thai, sinh con mà còn cho người lao động nói chung khi nuôi con sơ sinh và thực hiện các biện pháp tránh thai.

1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm thai sản: 

Theo “Báo cáo Tổng kết chính sách bảo hiểm xã hội” của Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội, từ năm 2000 đến nay, bình quân cứ 30 người tham gia bảo hiểm xã hội có 1 người được hưởng trợ cấp thai sản, với độ dài hưởng trợ cấp bình quân là 90 ngày. Từ năm 1995 đến nay, đã giải quyết cho gần 1,31 triệu lượt người hưởng chế độ thai sản. Như vậy, chế độ bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng đối với người lao động (cả nam và nữ), cụ thể là:

– Tạo điều kiện cho lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ và thực hiện công tác xã hội. 

– Tạo điều kiện cho lao động nam thực hiện nghĩa vụ khi có vợ sinhcon.

– Đảm bảo thu nhập cho người lao động trong thời gian hưởng thai sản.

– Đảm bảo sức khỏe cho người lao động và quyền được chăm sóc của trẻ sơ sinh. 

2. Quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản:

2.1. Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:

Căn cứ theo Điều 30,31 Luật BHXH 2014 Nghị định115/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Lao động nữ mang thai; 

b) Lao động nữ sinh con; 

c) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; 

d) Người lao động nữ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. 

đ) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ

e) Người lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con 

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Luật BHXH2014, người lao động thuộc các trường hợp trên phải tham gia BHXH như sau: 

“2.Người lao động quy định tại các điểm b, c và d phải đóng BHXH từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. 

3.Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.”

2.2. Chế độ và quyền lợi bảo hiểm thai sản:

2.2.1. Đối với thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:

Căn cứ theo Điều 32, 33, 34, 35, 36 và 37 Luật BHXH quy định chi tiết thời gian hưởng chế độ Bảo hiểm thai sản như sau:

2.2.1.1. Thời gian nghỉ khám thai:(Điều 32)

Lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai.Thời gian nghỉ này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,ngày nghỉ hằng tuần. 

2.2.1.2. Thời gian nghỉ khi bị sẩy thai, nạo, hút thai: (Điều 33)

Để giúp người lao động nữ nhanh chóng phục hồi sức khỏe, sớmổnđịnhnhịp sinh học của cơ thể, tại Khoản 1, Điều 33 của Luật Bảo hiểm xã hội năm2014 quy định, khi sảy thai, lao động nữ được nghỉ việc, hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của bệnh viện có thẩm quyền. Trong thời gian nghỉ việc (tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết và ngày nghỉ hằng tuần), việc hưởng trợ cấp sẽ là :

– 10 ngày đối với trường hợp thai dưới 05 tuần tuổi. – 20 ngày đối với trường hợp thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi.- 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên. 

– 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, với nhịp độ cuộc sống cũngnhư yêu cầu của công việc, nhu cầu cần đảm bảo về sức khỏe sinh sản thì mức nghỉ trên là còn thấp.

2.2.1.3. Thời gian nghỉ sinh con: ( Điều 34)

– Đối với lao động nữ: 

∙Thời gian nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con tối đa là 6 tháng, trong đó nghỉ trước sinh không quá 02 tháng. 

∙Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên, cứ thêm mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. 

– Đối với lao động nam: 

∙Trường hợp thông thường, lao động nam đóng BHXH được nghỉ 05 ngày khi có vợ sinh con. 

∙Trường hợp vợ sinh con phẫu thuật, thời gian nghỉ là 07 ngày.

∙Trường hợp sinh đôi: Nghỉ 10 ngày. 

∙Trường hợp sinh ba trở lên, cứ thêm mỗi con thì lao động nam được nghỉ thêm 03 ngày. 

∙Nếu vợ sinh đôi và phải phẫu thuật, lao động namđược nghỉ 14 ngày làm việc. 

2.2.1.4. Chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ: (Điều 35) 

– Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai,nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. 

– Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 

– Thủ tục hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ được quy định 

2.2.1.5. Thời gian nghỉ khi nuôi con nuôi: (Điều 36)

Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 

Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội, đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 2, Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ. 

Để bảo vệ quyền lợi cho những người nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, Điều 36, Luật Bảo hiểm xã hội (2014) quy định đây cũng là một trongnhững đối tượng được hưởng chế độ thai sản cụ thể là sẽ được nhận trợ cấp một lần cho mỗi con. Căn cứ Điều 39, Luật Bảo hiểm xã hội (2014), ngoài khoản tiền trợ cấp một lần nêu trên, người nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi còn được hưởng một khoản tiền bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. 

2.2.1.6. Thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh thai:(Điều 37) 

Khi thực hiện biện pháp tránh thai, hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh; chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau: 

– 07 ngày đối với lao động nữ đặt vòng tránh thai; – 15 ngày đối với NLĐ thực hiện biện pháp triệt sản. 

Thời gian hưởng chế độ thai sản nêu trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,ngày nghỉ hằng tuần.

Trước đây, khi thực hiện các biện pháp tránh thai, người lao động chỉ được hưởng mức trợ cấp theo chế độ ốm đau (thấp hơn chế độ thai sản). Trong khi, các biện pháp tránh thai này đều gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe và tâm lý của người lao động. Vì thế, thay đổi về quan điểm của nhà làm luật đã thể hiện sự thấu hiểu và đảm bảo tính công bằng, cũng như có sự hỗ trợ, động viên đối với người lao động khi thực hiện các biện pháp tránh thai

2.2.2. Các loại trợ cấp và mức hưởng chế độ bảo hiểmthai sản:

* Đối với lao động nữ: 

– Trợ cấp 1 lần: 

Theo Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, lao động nữ sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi sẽ được hưởng tiền thai sản, bao gồm: Trợ cấp một lần = Mức lương cơ sở x 2 

Năm 2021, mức lương cơ sở là 1,49 triệu đồng/tháng. Do đó, mức trợ cấp một lần khi sinh còn là: 1,49 triệu đồng x 2 = 2,96 triệu đồng.

– Mức hưởng: 

– NLĐ hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức hưởng chế độ thai sản được tính như sau: 

+ Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, Trường hợp NLĐ đóng BHXH chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản theo quy định là mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng BHXH; 

+ Mức hưởng một ngày đối với trường hợp quy định được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày; 

+ Mức hưởng chế độ khi sinh con; nhận nuôi con nuôi được tính theo mức trợ cấp tháng quy định; trường hợp có ngày lẻ hoặc trường hợp quy định thì mức hưởng một ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho 30 ngày.

– Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được tính là thời gian đóng BHXH, NLĐ và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH. 

Như vậy có thể hiểu ngắn gọn: 

Mức hưởng hàng tháng = 100% x Mức bình quân tiền lươngthángđóngBHXH 06 tháng trước khi nghỉ việc 

Trường hợp chưa đóng đủ 06 tháng thì mức hưởng được tính theo mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng. 

* Đối với lao động nam: 

Trợ cấp: 

Trợ cấp một lần = Mức lương cơ sở x 2 (tức 2,96 triệu đồng) – Tiền chế độ: 

Theo Điểm b khoản 1 Điều 39 Luật Bảo hiểmxã hội 2014: Mức hưởng = Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXHcủa06thángtrước khi nghỉ việc : 24 x Số ngày nghỉ 

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂMTHAI SẢN

3. Thực trạng áp dụng các quy định về chế độ bảo hiểm thai sản:

3.1. Về đối tượng và điều kiện hưởng chế độ thai sản: – Về đối tượng: 

So với Luật Bảo hiểm xã hội 2006 trước đây, Luật Bảo hiểm xã hội 2014- Điều 30 đã mở rộng thêm phạm vi áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản cho trường hợp người lao động là người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng và người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương. Tuy nhiên, trong các đối tượng hưởng trợ cấp thai sản đã quy định chưa tính đến một số trường hợp,như: người lao động phải nghỉ việc vì mang thai bệnh lí, người nuôi dưỡng trẻ sơ sinh khi người mẹ tham gia bảo hiểm bị chết sau khi sinh con, lao động nam có tham gia bảo hiểm xã hội nhưng vợ không thamgia bảo hiểm. Như thế, chưa thể hiện sự bình đẳng giữa các đối tượng thuộc diện tham gia và hưởng bảo hiểm thai sản, đồng thời chưa đảm bảo đầy đủ quyền cho người lao động, đặc biệt cho lao động nữ và trẻ sơ sinh.

– Về điều kiện: 

Việc quy định điều kiện để hưởng trợ cấp thai sản – người lao động phải có thời gian đóng BHXH đủ 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con–dẫn đến những trường hợp đã có thời gian tham gia BHXH nhiều năm, nhưngvì lý do nào đó không đủ điều kiện nêu trên thì sẽ không được hưởng chế độ thai sản và không được tính thời gian nghỉ thai sản theo quy định. Quy định này không đảm bảo quyền lợi cho người lao động và còn dẫn đến tình trạng“lách” luật (lao động nữ nghỉ việc nhưng vẫn đóng BHXH để đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản) 

3.2. Về Các loại trợ cấp và mức hưởng bảo hiểmchế độ thai sản:

Đây là khoản tiền nhằm bù đắp thêm những chi phí tăng lênđột ngột do người mẹ cần phải sắm sửa những vật dụng cần thiết cho việc nuôi con nhỏ. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng, pháp luật cần ấn định bằng một khoản tiền cụ thể giống như các nước, cụ thể bằng 3 đến 5 tháng tiền lương tối thiểu chung. Và khoản trợ cấp này được áp dụng cho cả người lao động nuôi con nuôi sơ sinh. Mức trợ cấp 1 lần được áp dụng cho mỗi trẻ sơ sinh kèm theo trợ cấp mất sữa, trợ cấp thêm sữa cho trường hợp sinh đôi trở lên hoặc trường hợp khi sinh con bị thiếu cân, thiếu tháng. 

4. Một số kiến nghị, đề xuất: 

Đầu tiên, theo em cần mở rộng phạm vi các đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản nhằm hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của người lao động trong xã hội. Mặc dù hiện tại Luật bảo hiểmxã hội 2014 đã hướng đến 2 đối tượng cụ thể cho chế độ thai sản là lao động nữ và lao động nam,tuy nhiên vẫn chưa đi sâu và đặc thù từng ngành nghề của mỗi lao động. Ví dụ như trong môi trường làm việc nặng nhọc thì đối với lao động nữ có thể được phép chuyển sang công việc nhẹ nhàng hơn từ thời điểm có thai vì thời điểm đấy là thời điểm nhạy cảm nhất trong suốt thai kì. Như vậy sẽ đảm bảo được sức khỏe của thai phụ. 

Cuối cùng, trong suốt 9 tháng thai kì lao động nữ cần thiết đượcnghỉkhám thai 7-9 lần thay vì nghỉ 5 lần như hiện tại. Tức là trung bình1-2 tháng mang thai, lao động nữ được nghỉ đi khám thai 1 lần, như vậy sẽ đảm bảo tốt cho sức khỏe của thai phụ và thai nhi. Ngày nghỉ khám thai sẽ vẫn được tính lương như bình thường. 

Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thai sản tronng thời gian qua đã nâng cao chất lượng sống của rất nhiều gia đình có cả lao động namvà nữ, đặc biệt là lao động nữ khi họ có thời gian nhiều hơn để chăm sóc con cũng như chăms óc cho bản thân mình. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng không tránhkhỏi những hạn chế, bất cập. Vì vậy cần tập trung giải quyết các vấn đề còn tồn đọng để chế độ thai sản được thực hiện một cách hiệu quả hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO

  1. Luật bảo hiểm xã hội 2014 
  2. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2005), Báo cáo tổng kết chính sách bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, ngày 10/8/2005
  3. Đỗ Thị Dung (2006), Chế độ bảo hiểm thai sản và hướng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền lợi của lao động nữ. Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 3/2006 
  4. Hoàng Thúy Hà (2017), “Pháp luật về bảo hiểm thai sản và thực tiễn thực hiện tại quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ Luật học-Trường Đại học Luật Hà Nội. 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Bình luận, đánh giá các quy định về lao động giúp việc gia đình trong Bộ luật Lao động sửa đổ bổ sung năm 2019.

Báo cáo mới của Tổ chức lao động thế giới (ILO) ngày 15/6/2021 về người  lao động giúp việc gia đình đã đưa ra dữ liệu cho thấy hiện nay trên thế giới có 75,6  triệu lao động giúp việc gia đình (4.5% người lao động)1. Một con số tỷ lệ đáng kể trong lực lượng lao động xã hội, lao động giúp việc gia đình đã, đang và sẽ có những đóng góp quan  trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội toàn cầu. Tuy nhiên trên thực tế lao động giúp việc gia đình vẫn bị đánh giá thấp, bị coi là lao động có trình độ kém, hầu như không  được quan tâm dẫn đến bị phân biệt đối xử về điều kiện làm việc và dễ bị lạm dụng  nhân quyền.

1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH

1.1. Khái niệm lao động giúp việc gia đình

Định nghĩa đầu tiên về lao động giúp việc gia đình được Tổ chức lao động  quốc tế đưa ra năm 1951. Theo đó, nhiều quốc gia trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa về loại hình lao động này. Để thống nhất cách hiểu chung và ghi nhận những  đóng góp quan trọng của lao động giúp việc gia đình thì ngày 16/6/2011, ILO đã  thông qua Công ước số 189 về việc làm bền vững cho lao động giúp việc gia đình. Theo đó, “ người lao động giúp việc gia đình (domestic worker) là bất kỳ người  nào thực hiện công việc trông gia đình có quan hệ việc làm; một người chỉ thực hiện công việc trong gia đình theo dịp hoặc không thường xuyên và không có tính chất nghề nghiệp thì không phải là người lao động giúp việc gia đình”.  

Ở Việt Nam, BLLĐ 2012 đã quy định cụ thể đầu tiên về lao động giúp việc gia đình, song  BLLĐ 2019 vẫn giữ nguyên khái niệm tại điều 161 như sau: “Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia  đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. 

Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”. 

1.2 Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình

– Lao động giúp việc gia đình thực hiện thường xuyên các công việc trong gia đình: đây có thể  coi là nét đặc trưng của loại hình lao động này vì công việc của họ được lặp đi lặp  lại mỗi ngày (nấu ăn, trông trẻ, lau dọn nhà cửa,…). 

– lao động giúp việc gia đình làm việc trong môi trường khép kín, đơn lẻ: bởi những nét đặc  thù của công việc, các lao động giúp việc gia đình rất ít có sự giao lưu với bên ngoài, không tham  gia các tổ chức đoàn thể nên dễ phải đối mặt với các nguy cơ: mắng chửi, đánh đập,  đe dọa, lạm dụng tình dục,… 

– lao động giúp việc gia đình chủ yếu là lao động nữ và có trình độ học vấn thấp: theo dữ liệu  của ILO mới ngày 15/6/2021 vừa qua thì trên thế giới, có khoảng 57,7 triệu phụ nữ  làm giúp việc, chiếm 76,2% tổng số lao động giúp việc gia đình, chiếm phần lớn  lực lượng lao động ở châu Âu, Trung Á và châu Mỹ. Ở Việt Nam, phụ nữ làm giúp  việc chiếm 90%, tiếp đó là những công việc chăm sóc, bảo mẫu chiếm 6,6%2.  lao động giúp việc gia đình phần lớn là nhữn người có trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp.

1.3 Vai trò của lao động giúp việc gia đình 

Thứ nhất, vai trò đối với chính lao động giúp việc gia đình: có việc làm, tạo thu nhập ổn định,  đảm bảo chi tiêu và góp phần cải thiện cuộc sống cho gia đình và địa phương.  Ngoài ra, thu nhập của người lao động từ giúp việc gia đình còn là nguồn tiết kiệm,  tích lũy, phòng tránh rủi ro xảy ra. 

Thứ hai, vai trò đối với NSDLĐ sử dụng lao động giúp việc gia đình: được san sẻ những gánh  nặng về công việc gia đình, từ đó chuyên tâm thực hiện công việc, tạo ra thu nhập  cao hơn. Mặt khác, lao động giúp việc gia đình còn là giải pháp hiệu quả trong việc chăm sóc tốt  cho các thành viên trong gia đình, ưu việt hơn so với dịch vụ như nhà trẻ, viện  dưỡng lão,.. 

Thứ ba, vai trò đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước: khi thu nhập  của NLĐ và NSDLĐ tăng cao sẽ góp phần ổn định đời sống xã hội, đây cũng là  một trong những điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm an sinh xã hội của  đất nước. 

2. ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ LAO  ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH 

2.1 Pháp luật về hợp đồng lao động đối với lao động giúp việc gia đình 

ILO và đa số các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận GVGĐ là một nghề,  người làm nghề GVGĐ là một người lao động được bình đẳng như những người  lao động khác. Như vậy, cần có một hình thức pháp lý để xác lập quan hệ lao động  giữa lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ. HĐLĐ là hình thức pháp lý BLLĐ 2019 quy định bắt  buộc đối với lao động giúp việc gia đình.  

2.1.1 Chủ thể giao kết hợp đồng lao động 

Chủ thể giao kết HĐLĐ GVGĐ là người lao động giúp việc gia đình và người sử dụng lao  động. Trong đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên được quyền trực tiếp ký HĐLĐ, người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền ký kết HĐLĐ nhưng phải có sự đồng ý  bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.  

Có thể thấy, pháp luật lao động đã rộng mở cơ hội cho phép trẻ em từ đủ 15  tuổi trở lên có thể làm công việc GVGĐ nếu công việc đó nhẹ nhàng, phù hợp với  lứa tuổi, thời gian làm việc không vượt quá thời gian pháp luật quy định. Tuy  nhiên, điểm hạn chế là độ tuổi dưới 18 là người chưa có kinh nghiệm và kỹ năng  sống, ứng phó với các tình huống dẫn đến dễ bị xâm hại, đặc biệt phần lớn lao động giúp việc gia đình lại là nữ. Một số liệu khảo sát tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cho  biết có tới 17,3% lao động giúp việc gia đình bắt đầu từ độ tuổi dưới 18.  

2.1.2 Hình thức và nội dung của HĐLĐ 

BLLĐ 2019 quy định “Người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động là người giúp việc gia đình.”3 Nội dung HĐLĐ  phải tuân thủ khoản 1 Điều 21 BLLĐ. Quy định này chủ yếu đảm bảo quyền và lợi  ích hợp pháp của các bên nhưng dường như thực tế cả người GVGĐ và người sử dụng lao động đều không muốn bị ràng buộc về mặt pháp lý với nhau nên việc thực  hiện quy định này không dễ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, trên 90% HĐLĐ  GVGĐ được thỏa thuận bằng lời nói. Pháp luật cần có biện pháp linh hoạt và răn đe để thay đổi nhận thức của NSDLĐ và lao động giúp việc gia đình, đồng thời tăng cường công tác  quản lý nhà nước để kịp thời phát hiện và xử lý đối với những trường hợp vi phạm. 

2.1.3 Thủ tục giao kết HĐLĐ 

HĐLĐ GVGĐ phải tuân theo thủ tục: (i) Cung cấp thông tin trước khi giao  kết HĐLĐ; (ii) Thử việc; (iii) Ký kết HĐLĐ; (iv) Thông báo với UBND cấp xã. 

Lao động giúp việc gia đình là đối tượng có nhiều nét đặc trưng nên pháp luật quy định các  thủ tục nh m các bên đạt được mong muốn, lợi ích tối đa. Đặc biệt cần phải thông báo đến cơ quan có thẩm quyền vì có liên quan đến con người, tạm trú,..Tuy nhiên  thì quy định này ít được thực hiện bởi NSDLĐ có thể thay đổi người giúp việc liên  tục nên họ rất ngại khai báo hoặc khai báo một lần nhưng lại thay đổi rất nhiều  NLĐ khác. Như vậy, pháp luật cần cân nhắc các giải pháp trong vấn đề quản lý lao động giúp việc gia đình. 

2.1.4 Thực hiện, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ đối với lao động giúp việc gia đình

Khi HĐLĐ được kí kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa  thuận trong hợp đồng. Tạm hoãn HĐLĐ đối với lao động giúp việc gia đình trong trường hợp NLĐ  mang thai và do hai bên thỏa thuận. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên, pháp luật  quy định về các trường hợp chấm dứt HĐLĐ GVGĐ. Theo quy định tại Khoản 2  Điều 162 mỗi bên có quyền chấm dứt HĐLĐ bất kì lúc nào nhưng phải báo trước  15 ngày để bên kia còn chuẩn bị và không bị động. 

2.1.5 Quyền, nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt HĐLĐ 

Khi chấm dứt HĐLĐ các bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ cho nhau các  khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong HĐLĐ. Đối với NLĐ, khi  chấm dứt HĐLĐ sẽ được NSDLĐ trả trợ cấp thôi việc trừ một số trường hợp.  Ngoài ra còn được thanh toán tiền nghỉ phép năm, tiền tàu xe, các giấy tờ và các  khoản nợ (nếu có) trong 7 ngày, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. NSDLĐ có  trách nhiệm thanh toán các quyền lợi nói trên và thông báo đến cơ quan có thẩm  quyền trong vòng 7 ngày. 

2.2 Pháp luật về điều kiện lao động đối với lao động giúp việc gia đình

2.2.1 Quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động giúp việc gia đình

Về thời giờ làm việc: được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, đồng  thời quỹ thời gian làm việc cũng có sự khác nhau giữa 2 độ tuổi của NLĐ là người  từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi và người đủ 18 tuổi trở lên. 

Để đảm bảo sức khỏe cho lao động giúp việc gia đình chưa thành niên, pháp luật có quy định riêng  tại Điều 146 BLLĐ 2019. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay chưa có văn bản hướng  dẫn cụ thể về việc lao động giúp việc gia đình làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm nên dễ gây nên  sự lạm dụng trong sử dụng lao động từ phía NSDLĐ. 

Về thời giờ nghỉ ngơi: được quy định cụ thể tại chương VII BLLĐ 2019. Cụ  thể lao động giúp việc gia đình phải được nghỉ ít nhất 8 giờ trong đó có 6 giờ liên tục trong 24 giờ  liên tục. Quy định này đảm bảo cho NLĐ có được sự nghỉ ngơi sau nhiều giờ liên  tục làm việc, tránh sự lạm dụng của NSDLĐ do sống cùng gia đình với họ. 

2.2.2 Quy định pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao động đối với lao động giúp việc gia đình

Điều 13 Công ước 189 của ILO quy định mọi người lao động giúp việc gia đình có quyền  được làm việc trong một môi trường an toàn và vệ sinh. Khoản 5 Điều 89 Nghị  định 145/2020/NĐ-CP đã quy định vấn đề an toàn, vệ sinh lao động đối với lao  động là người giúp việc gia đình. Tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả NSDLĐ  đều thực hiện hết trách nhiệm của mình và lao động giúp việc gia đình có thể không biết đến tất cả  các quyền lợi của mình được hưởng. Hơn nữa, pháp luật cần nhận thức về những  nguy cơ an toàn vệ sinh lao động đột xuất trong quá trình lao động và có cơ chế  điều tiết cũng như các biện pháp đảm bảo cho lao động giúp việc gia đình. 

2.3 Pháp luật về điều kiện sử dụng lao động đối với lao động giúp việc gia đình

2.3.1 Pháp luật về tiền lương 

Tiền lương là vấn đề mà bất kì NLĐ nào cũng đều quan tâm bởi đó ảnh  hưởng tới cuộc sống của chính NLĐ và gia đình họ. Khoản 3 Điều 162 BLLĐ 2019  quy định: “3. Hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động về hình thức trả lương,  kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hằng ngày, chỗ ở”. Quy định này phù hợp với  nguyên tắc chung về chế độ tiền lương, bản chất của quan hệ lao động. Tại NĐ  145/2020/NĐ-CP quy định: “tiền lương của người lao động thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 90 của Bộ luật Lao  động bao gồm mức lương theo công việc, phụ cấp lương và các khoản bổ sung  khác nếu có. Mức lương theo công việc bao gồm cả chi phí tiền ăn, ở của người lao  động tại gia đình người sử dụng lao động (nếu có) không được thấp hơn mức lương  tối thiểu vùng do Chính phủ công bố. Người sử dụng lao động và người lao động  thỏa thuận mức chi phí ăn, ở hằng tháng của người lao động (nếu có), tối đa không  quá 50% mức lương theo công việc ghi trong hợp đồng lao động”.  

Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc khi thực hiện quy định trên là với quy định  mức lương (bao gồm cả chi phí ăn, ở của người lao động sống cùng gia đình người  sử dụng lao động nếu có) sẽ gây khó khăn trong việc xác định và gây nhầm lẫn trên  thực tế. Quy định này có thể sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng lao động lợi dụng  để đưa ra mức tiền lương không tương xứng với sức lao động của người lao động.  Bởi trên thực tế phần lớn 105 mức lương hiện nay là do gia đình chủ đề xuất và  quyết định (có 80,6% trường hợp mức lương hiện nay là do gia đình chủ đề xuất và  92,8% trường hợp do gia đình chủ quyết định mức lương này).  

2.3.2 Pháp luật về BHXH, BHYT đối với lao động giúp việc gia đình

Theo quy định NSDLĐ có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương  của lao động giúp việc gia đình một khoản tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y  tế theo quy định của pháp luật để người lao động chủ động tham gia bảo hiểm xã  hội, bảo hiểm y tế. So với BLLĐ năm 2012 với BLLĐ năm 2019 dường như không  có sự thay đổi nhiều, chỉ thay cụm từ để người lao động tự lo bảo hiểm thành để  người lao động chủ động tham gia BH H, BH T . Dù là tự lo hay chủ động  tham gia BH H thì theo quy định của pháp luật hiện hành người lao động giúp việc gia đình vẫn  chỉ thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, như vậy sẽ không thể đảm bảo  được hết các quyền lợi cho người lao động.  

2.3.3 Pháp luật trong lĩnh vực kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất

Người sử dụng lao động và người lao động xác định cụ thể các hành vi, hình  thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất theo quy định tại khoản 2 Điều  118 và Điều 129 của Bộ luật Lao động và ghi trong hợp đồng lao động hoặc thể  hiện bằng hình thức thỏa thuận khác 4. Có hai hình thức xử lý kỷ luật lao động áp  dụng đối với người lao động bao gồm khiển trách, sa thải theo khoản 1, khoản 4  Điều 124 của Bộ luật Lao động.  

2.4 Pháp luật về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực lao động giúp việc gia đình

Theo các tài liệu của ILO ghi nhận lao động giúp việc gia đình, đặc biệt là  lao động giúp việc gia đình làm việc tại nước ngoài là đối tượng lao động dễ bị bóc lột và lạm dụng. Tại Việt Nam, các hành vi bị nghiêm cấm đối với NSDLĐ khi có lao động giúp việc gia đình được quy định rõ tại Điều 165 BLLĐ 2019. Các quy định này cũng  thống nhất với các quy định về hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động  (Điều 8 BLLĐ), góp phần cảnh báo và là cơ sở để xử lý vi phạm đối với người sử  dụng lao động có hành vi. Hiện nay vấn đề xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lao động giúp việc gia đình được quy định tại Nghị Định 28/2020/NĐ-CP. 

Khác với BLLĐ 2012 thì BLLĐ 2019 quy định cơ quan có thẩm quyền giải  quyết tranh chấp lao động tại Điều 187 bao gồm: Hòa giải viên lao động, tòa án  nhân dân và bổ sung thêm cơ hội đồng trọng tài lao động. Tranh chấp lao động giữa  người GVGĐ với người sử dụng lao động không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải  trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết. 

Quy định này là hợp lý bởi người lao động giúp việc gia đình ở vị thế yếu thế hơn trong quan hệ lao  động với người sử dụng lao động. Mặt khác, do đặc thù của công việc GVGĐ rất  dễ bị người sử dụng lao động xâm phạm quyền lợi, lạm dụng sức lao động, ngược  đãi và các hành vi phạm pháp luật khác. Hơn nữa, lao động giúp việc gia đình chủ yếu là những người lao động xuất thân từ nông thôn, trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết pháp  luật lao động, lại không có tổ chức đại diện để đứng ra bảo vệ họ nên khi tham gia  hòa giải họ có khả năng rơi vào vị thế bất lợi hơn khi thỏa thuận với phía người sử  dụng lao động. 

Về thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động giữa lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ cũng  tuân theo quy định về thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân nói chung  được quy định tại Điều 189 BLLĐ năm 2019. Quy định như vậy là phù hợp với yêu  cầu của việc giải quyết tranh chấp lao động, cần giải quyết nhanh chóng nh m khôi  phục quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đã bị xâm phạm, giúp người lao động có  thể tiếp tục công việc bình thường, giải tỏa mâu thuẫn, bất động giữa các bên, duy  trì và củng cố quan hệ lao động. 

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG  GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM 

BLLĐ 2019 đã kế thừa và phát triển những quy định về lao động giúp việc gia đình của  BLLĐ 2012 nhưng xét thấy vẫn tồn đọng một số bất cập trên thực tế, lao động giúp việc gia đình là  bên yếu thế, cần phải được bảo vệ. Chính vì lý do đó, em xin đề xuất một số kiến  nghị đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ lao động giúp việc gia đình đồng thời hướng  đến mục tiêu đưa GVGĐ trở thành việc làm bền vững cho người lao động. 

Thứ nhất, đối với pháp luật về hợp đồng lao động giúp việc gia đình cần bổ sung thêm quy  định về hậu quả của tạm hoãn HĐLĐ GVGĐ. Hiện pháp luật cho phép người sử  dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với lao động giúp việc gia đình nếu hết  thời hạn tạm hoãn HĐLĐ mà người lao động không có mặt. Tuy nhiên, trường hợp  nếu người lao động có lý do chính đáng thì người sử dụng lao động có quyền đơn  phương chấm dứt HĐLĐ không Việc bổ sung quy định này sẽ là cơ sở để bảo vệ  quyền lợi cho người lao động giúp việc gia đình, đồng thời cũng là căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp giữa người sử dụng lao động và người lao động.

Thứ hai, điều chỉnh quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ  ngơi theo hướng quy định tổng số giờ làm việc trong ngày, trong tuần, tổng số giờ  nghỉ ngơi tối thiểu, quy định cụ thể về thời gian làm thêm giờ đối với lao động giúp việc gia đình.  Bổ sung quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động giúp  việc gia đình sống cùng gia đình người sử dụng lao động.  

Thứ ba, cần bổ sung các quy định về đảm bảo điều kiện sống cho lao động giúp việc gia đình. 

Thứ tư, bổ sung quy định về đào tạo nghề, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề  đối với lao động giúp việc gia đình và cấp chứng chỉ nghề cho lao động giúp việc gia đình. Đồng thời cũng cần quy  định tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về lao động giúp việc  gia đình để đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm. Hơn nữa, cũng cần có quy định về  nhiệm vụ của thanh tra lao động trong việc thanh tra, kiểm tra hộ gia đình sử dụng  lao động giúp việc gia đình. 

GVGĐ là một công việc đã xuất hiện, tồn tại từ lâu ở các quốc gia trên thế  giới và cả ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển kinh tế, lao động giúp việc gia đình ngày càng có vai  trò quan trọng với sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, pháp  luật về lao động giúp việc gia đình bên cạnh những ưu điểm vẫn không tránh khỏi tồn tại, hạn chế,  thiếu sự linh hoạt và hiệu quả thực thi không cao. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp  luật cũng cần chú trọng tới những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện  pháp luật về lao động giúp việc gia đình trong đó việc tăng cường công tác thông tin, tuyền thông về lao động giúp việc gia đình thay đổi thái độ, nhận thức, quan điểm của xã hội về nghề GVGĐ,  nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động giúp việc gia đình là một trong những giải pháp quan trọng  cần hướng tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Bộ luật lao động 2012; 

2. Bộ luật lao động 2019; 

3. Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số  điều của Bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động; 

4. Nghị định 28/2020/NĐ-CP định xử phạt hành chính lĩnh vực lao động, bảo  hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng; 

5. Đỗ Thị Dung (chủ nhiệm đề tài) (2017), Pháp luật lao động Việt Nam về lao  động giúp việc gia đình – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Đề tài  nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường ĐH Luật Hà Nội. 

6. Đỗ Thị Dung (chủ biên) (2018), Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt  Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; 

7. Lã Trọng Đại (2014), Những vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động giúp việc  gia đình và giải pháp khắc phục , Tạp chí Lao động và xã hội; 

8. Quỳnh Anh, Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị, , “ILO: Cần công nhận giúp việc  gia đình là một nghề chính thức”,16/6/2021; 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Bình luận việc thực hiện chính sách tền tệ tác động đến tỷ giá hối đoái

Theo như em tìm hiểu, nửa đầu năm 2017, nước ta đã phải đối mặt với bối cản cán cân thương mại thâm hụt ( Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp có vốn FDI trong nửa đầu năm thặng dư hơn 7,55 tỷ USD); những biến động lớn trên thị trường tài chính quốc tế đặc biệt sự kiện Brexit và các khâu chuẩn bị, quá trình đàm phán thực hiện Brexit. Những tác động đa chiều của cuộc bầu cử tại Mỹ, cũng như các quyết định của Mỹ, biến động về quan hệ ngoại giao của Qatar và một số nước Trung Đông; Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất 2 lần. Đồng đô la Mỹ mất giá trên thị trường tài chính quốc tế,…Tuy nhiên tỷ giá vẫn được giữ ổn định nhờ sự tác động của chính sách tiền tệ:

– Thứ nhất, trong nửa năm đầu 2017, tỷ giá không thay đổi nhiều nên NHNN đã có động thái mua vào khoảng 1 tỷ USD vào dự trữ ngoại hối. Lượng tiền này tiếp tục được bơm ra nền kinh tế thông qua các ngân hàng. Tính trong 6 tháng đầu năm, tín dụng ngoại tệ đã tăng 5,5% – 6% trong khi năm 2016 không tăng.

– Thứ hai, để góp phần giảm áp lực đáng kể lên tỷ giá, chính sách tiền tệ đã phối hợp đồng bộ, chặt chẽ trong điều hành lãi suất VND trên thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu Chính phủ. Thanh khoản của hệ thống các TCTD, sự ổn định của thị trường vàng… Cụ thể là quyết định giảm lãi suất điều hành đồng thời giữ nguyên hạn mức tăng trưởng tín dụng chung là 18%. Mục đích của NHNN là cho các ngân hàng thương mại (NHTM) cơ hội giảm lãi suất cho vay và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Qua số liệu thống kê, mức lãi suất huy động và cho vay năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 đang ở mức thực dương, NIM của các ngân hàng đang ở mức hợp lý, xu hướng lạm phát giảm thấp.

Nhận thấy tác động của chính sách tiền tệ giai đoạn này là trong hệ thống tỷ giá hối đoái linh hoạt, tư bản vận động tự do, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng mức cung tiền trong nền kinh tế làm cho lãi suất giảm xuống làm cho tăng tổng cầu, nhờ vậy mà quy mô của nền kinh tế mở rộng, thu nhập tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm. Khi lãi suất giảm, tư bản đương nhiên đổ ra nước ngoài để đầu tư vào những nước có lãi suất cao hơn, lúc này thị trường ngoại hối dư cầu làm cho tỷ giá ngoại tệ tăng, tỷ giá nội tệ giảm kéo theo xuất khẩu ròng tăng, tổng cầu tăng nên nền kinh tế cân bằng tại điểm có sản lượng cao hơn mức ban đầu.

– Thứ ba, chính sách tiền tệ đã thực hiện biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào Việt Nam bằng cách tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Cụ thể, thực hiện theo quyết định 1058/ QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ quyết định phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lí nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Triển khai hoạt động này là việc lành mạnh hóa, nâng cao năng lực tài chính: Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, xử lý nợ xấu tại các NHTM thông qua bán nợ cho VAMC, tăng vốn điều lệ và lợi nhuận để lại; Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; Cơ cấu lại hoạt động kinh doanh theo hướng an toàn, lành mạnh,…Theo tác động của quy luật cung cầu ngoại tệ sẽ làm cho đồng ngoại tệ mất giá, đồng nội tệ lên giá, tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi sẽ làm cho đồng ngoại tệ lên giá, đồng nội tệ mất giá, tỷ giá hối đoái tăng.

Tóm lại, chính sách tiền tệ trong 6 tháng đầu năm 2017 đã  thực hiện một cách thận trọng và chặt chẽ, ổn định được lãi suất và tỷ giá. Trong khi đó, việc điều hành giảm lãi suất phát hành trái phiếu phù hợp, giảm chi tiêu ngân sách và có lộ trình tăng giá hàng hoá thiết yếu phù hợp ở chính sách tài khoá đã góp phần kiểm soát lạm phát. Từ đây ta có thể nhận thấy Chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối, chính sách lãi suất và tín dụng tiếp tục được điều hành hiệu quả và kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để  thực hiện cho được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức thấp và thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn. Đây là nhiệm vụ chính trị tổng quát, xuyên suốt của ngành Ngân hàng với vai trò chủ đạo để cùng với các Bộ, ngành thực hiện cho được mục tiêu chung của Chính phủ. Quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, không để xảy ra những biến động bất lợi. Tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Phát huy vai trò chủ đạo của thị trường tiền tệ trong việc duy trì sự ổn định của thị trường tài chính, hỗ trợ thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản phát triển lành mạnh.

Như vậy, qua việc tìm hiểu rõ hơn về nội dung và tác động của chính sách tiền tệ đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tác động của nó đối với tỷ giá hối đoái đóng vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Hiểu rõ về chính sách tiền tệ và vận dụng nó trong nền kinh tế hiện nay đòi hỏi cần phải có tầm nhìn rộng và kiến thức về nó. Để nền kinh tế Việt Nam có thể đi lên đạt được những mục tiêu tăng trưởng mà Nhà nước ta đã đề ra thì cần vận dụng một cách triệt để và có hiệu quả chính sách này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - Bình luận Pháp luật

Phương pháp thương lượng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp lĩnh vực thương mại.

I. VỤ VIỆC THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI  BẰNG PHƯƠNG THỨC THƯƠNG LƯỢNG 

1 Tóm tắt vụ việc 

Vụ việc tranh chấp thương mại giữa Công ty TNHH Hà Bình với Công ty TNHH kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (tài liệu hồ sơ tình huống  được đính kèm tại phần Phụ lục) là vụ việc tranh chấp hợp đồng mua bán về nghĩa vụ thanh toán. Cụ thể được tóm tắt như sau: 

– Công ty TNHH Hà Bình (bên bán) với Công ty TNHH kinh doanh và  chế biến lương thực Việt Tiến (bên mua) đã hợp tác, ký hợp đồng mua bán bột  mì từ tháng 01/2017 đến 31/12/2017. Hợp đồng có giá trị hiệu lực 1 năm, ghi  nhận sự thỏa thuận các bên, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và đúng thẩm  quyền ký kết.  

– 01/2018, hai bên tiếp tục ký hợp đồng có thời hạn 1 năm. Tuy nhiên đại  diện ký hợp đồng của bên bán không đúng thẩm quyền. 

– 03/2018, có văn bản xác nhận công nợ Công ty TNHH kinh doanh và  chế biến lương thực Việt Tiến xác nhận còn nợ công ty Hà Bình 613.000.000  đồng (Bằng chữ: sáu trăm mười ba triệu đồng). 

– 04/2018, Công ty TNHH Hà Bình yêu cầu Công ty Việt Tiến thanh toán  công nợ. Tuy nhiên, công ty Việt Tiến chỉ nêu những khó khăn của mình mà không đưa ra thời hạn thanh toán công nợ. Công ty TNHH Hà Bình dừng việc  gửi bột mỳ bắt đầu từ tháng 4/2018. 

– 06/2018, Công ty Việt Tiến yêu cầu công ty Hà Bình bồi thường thiệt hại  do đơn phương chấm dứt hợp đồng kinh tế ký ngày 5/1/2018.

Hai bên thống nhất thương lượng giải quyết tranh chấp tại văn phòng  Công ty Hà Bình ngày 30/06/2018. 

2 Quyền và nghĩa vụ các bên trên cơ sở hợp đồng ký kết 

❖ Công ty TNHH Hà Bình: 

– Công ty có quyền nhận các khoản thanh toán từ phía công ty Việt Tiến  sau khi đã giao hàng theo đúng thỏa thuận hợp đồng số 03/01/HĐ.2018/HB. – Công ty có nghĩa vụ giao hàng đúng chất lượng, số lượng, quy cách của  hàng hóa theo thỏa thuận hợp đồng, không được tự ý hủy bỏ hợp đồng khi chưa  có sự đồng ý của công ty Việt Tiến. 

– Công ty có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho Công ty Việt Tiến nếu xảy  ra các thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu vì hợp đồng được ký không đúng thẩm  quyền của người đại diện pháp luật. 

❖ Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: 

– Công ty có nghĩa vụ thanh toán cho công ty Hà Bình bằng tiền mặt hoặc  chuyển khoản trong vòng 20 ngày kể từ ngày nhận theo từng đợt nhận hàng như  đúng hợp đồng đã ký kết. 

– Có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi theo mức lãi suất ngân hàng trên giá trị  công nợ chậm trả. 

– Công ty có quyền yêu cầu Công ty Hà Bình thanh toán các chi phí tổn  thất khi đơn phương chấm dứt hợp đồng. 

II. BIÊN BẢN THƯƠNG LƯỢNG GHI NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA  CÁC BÊN 

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

BIÊN BẢN THƯƠNG LƯỢNG 

Tranh chấp hợp đồng mua bán về nghĩa vụ thanh toán 

Hôm nay, tại Văn phòng Công ty TNHH Hà Bình địa chỉ Nhà máy xay Yên Mỹ,  thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Vào hồi 9 giờ ngày 30 tháng 6  năm 2018. Chúng tôi gồm có: 

– Đại diện Công ty TNHH Hà Bình: PHẠM HOÀNG KHÁNH   Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH Hà Bình 

– Đại diện Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: NGUYỄN  NGỌC TIẾN 

 Chức vụ: Giám đốc Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến Đã tiến hành buổi họp thương lượng về tranh chấp hợp đồng mua bán về nghĩa  vụ thanh toán: 

1. Nội dung buổi họp thương lượng: 

1.1 Các sự kiện pháp lý liên quan đến tranh chấp thương mại 

– Ngày 05/01/2018, Công ty TNHH Hà Bình (bên bán) và Công ty kinh  doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (bên mua) ký hợp đồng mua bán bột mì.  Tuy nhiên, đại diện theo pháp luật của bên bán ký kết hợp đồng không đúng thẩm  quyền. Ông Trần Ngọc Văn giữ chức vụ Phó Giám đốc Công ty TNHH Hà Bình,  không có sự ủy quyền của giám đốc là ông Phạm Hoàng Khánh nện không có  thẩm quyền ký kết hợp đồng trên theo Điều 63 và Điều 67 Luật Doanh nghiệp  2020. Trước đó, giấy ủy quyền của ông Phạm Hoàng Khánh cho ông Trần Ngọc  Văn đã hết thời hạn vào ngày 30/12/2017 và không có sự gia hạn thêm. 

– 03/2018, có văn bản xác nhận công nợ của công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến còn nợ công ty Hà Bình 613.000.000 đồng (Bằng chữ: sáu trăm mười ba triệu đồng). 04/2018, Công ty TNHH Hà Bình yêu cầu Công ty  Việt Tiến thanh toán công nợ và dừng việc gửi bột mì. Tuy nhiên, phía Công ty  Việt Tiến không đưa ra thời hạn thanh toán mà chỉ nêu ra lý do chậm thực hiện  nghĩa vụ thanh toán, không phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 50 và 51  Luật Thương mại 2005. 

1.2 Quan điểm, ý kiến của các bên về sự kiện pháp lý dẫn đến tranh chấp – Công ty TNHH Hà Bình: 

Về việc ký hợp đồng không đúng thẩm quyền: Trong quy chế nội bộ công  ty TNHH Hà Bình việc ông Trần Ngọc Văn ký hợp đồng vẫn nằm trong phạm vi  ủy quyền trước đó và cũng đã được thông báo đến ban giám đốc và nhận được sự chấp thuận. Vì vậy, ông Trần Ngọc Văn ký hợp đồng với Quý công ty Việt Tiến  vẫn phù hợp với quy định của công ty TNHH Hà Bình. Hơn nữa, lỗi dẫn đến sơ  xuất này chúng tôi cho rằng không chỉ ở một phía mà do cả hai bên đã không rà  soát lại các văn bản pháp lý liên quan đã hết hiệu lực nên nếu có thiệt hại xảy ra,  cả hai công ty đều phải đồng chịu trách nhiệm. 

Về nghĩa vụ chậm thanh toán: chúng tôi đã nhiều lần gửi công văn nhắc nhở quý công ty nhanh chóng thanh toán công nợ và tiền lãi chậm trả, có cả bản  xác nhận công nợ hai bên đã ký. Tuy nhiên, phía công ty Việt Tiến nêu lí do  chung chung để kéo dài thời gian thanh toán công nợ, không đưa ra thời hạn cụ thể thanh toán, chúng tôi bắt buộc phải dừng việc gửi hàng hóa để đảm bảo duy  trì ngân sách của công ty. 

– Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: 

Công ty TNHH Hà Bình đã đưa người không có thẩm quyền để ký hợp  đồng với chúng tôi, lỗi này là hoàn toàn do công ty gây ra, ký hợp đồng với  chúng tôi mà không có sự ủy quyền của người có thẩm quyền . Nếu vụ tranh  chấp này không thương lượng thỏa đáng, hợp đồng sẽ bị vô hiệu và phía công ty Hà Bình sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho  chúng tôi. 

Chúng tôi đã đưa ra kế hoạch thanh toán công nợ cho quý công ty Hà  Bình, cụ thể là trong mùa vụ tiếp theo thuận lợi và kết thúc đầu tư ưa ưởng  mới vào hoạt động, chúng tôi sẽ có điều kiện để rút ngắn thời gian thanh toán. Lý  do chậm thanh toán công nợ chúng tôi đưa ra hoàn toàn chính đáng: vì vừa phải  đối phó với biến động giá vật tư, nguyên liệu, vừa triển khai đầu tư mở rộng sản  xuất và thị trường mì ăn liền tiêu thụ đang rất chậm nên mới ảnh hưởng đến tiến  độ thanh toán công nợ với quý công ty.  

Hơn nữa, việc không tiếp tục giao hàng của Quý công ty từ tháng 04/2018  dẫn đến rất nhiều thiệt hại cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn phải trả lương cho công  nhân, phải trả nợ ngân hàng và phải chịu tiền mua chênh lệch giá bột mì của  công ty khác nên chúng tôi không đồng ý. Yêu cầu phía công ty Hà Bình tiếp tục  thực hiện hợp đồng.  

1.3 Các giải pháp, phương án được các bên đề xuất 

– Công ty TNHH Hà Bình: Trên tinh thần hợp tác lâu dài của hai công ty  chúng tôi đề xuất việc chấp nhận hiệu lực của hợp đồng số 03/01/HĐ.2018/HB; đồng thời ký hợp đồng mới thể hiện những thỏa thuận của các bên, đúng thẩm  quyền và đúng trình tự của pháp luật. Tuy nhiên, Công ty Việt Tiến bắt buộc  phải thanh toán công nợ và tiền lãi trên giá trị chậm trả trong vòng 3 tháng tới để phía công ty chúng tôi có đủ kinh phí cung cấp bột mì cho quý công ty. 

– Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: chúng tôi đồng ý  với phương án ký hợp đồng mới và chấp nhận hiệu lực hợp đồng cũ như phía  Công ty TNHH Hà Bình đề xuất. Về phần nghĩa vụ thanh toán, hiện nay chúng  tôi đang gặp phải rất nhiều khó khăn vì trong 3 tháng vừa qua, công ty không gửi bột mì dẫn đến thiệt hại ước tính 400.000.000 như trong Công Văn số 06-11/04/VT đã nêu rõ. Vì vậy chúng tôi đề nghị quý công ty gia hạn thời hạn thanh  toán công nợ và tiền lãi chậm trả là 06 tháng. 

2. Kết quả buổi họp thương lượng 

Sau khi có sự trao đổi thỏa thuận, hai bên đã thống nhất về những nội  dung như sau: 

– Chấp nhận hiệu lực hợp đồng số 03/01/HĐ.2018/HB 

– Hai bên ký hợp đồng mới thể hiện những thỏa thuận của các bên, đúng thẩm quyền và đúng trình tự của pháp luật vào ngày 01/07/2018. – Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến sẽ phải thanh  toán công nợ cho Công ty TNHH Hà Bình tính đến tháng 03/2018 là  617.000.000 đồng. Thời hạn thanh toán là 04 tháng. Tiền lãi trên giá trị chậm trả, công ty Việt Tiến không phải thanh toán để bù đắp một phần  thiệt hại xảy ra. 

3. Điều khoản thực hiện 

Các bên thực hiện cam kết theo như đúng thỏa thuận và thời gian nêu  trong kết quả buổi họp thương lượng. Nếu một trong các bên không thực hiện  đúng thỏa thuận thương lượng thì tranh chấp sẽ đưa ra Tòa án nhân dân để giải  quyết. 

Biên bản được hoàn thành vào hồi 12 giờ, ngày 30 tháng 06 năm 2018. Biên bản này được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ một bản. 

Hưng Yên, ngày 30 tháng 06 năm 2018 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Luật Doanh nghiệp 2020; 

2. Luật Thương mại 2005.

III. Hợp đồng mua bán bột mì 1

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH
T.T YÊN MỸ – H. YÊN MỸTỈNH HƯNG YÊN
Số: 03/01/HĐ.2018/HB
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

HỢP ĐỒNG MUA BÁN BỘT MÌ 

– Căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015; 

– Căn cứ Luật thương mại 2005; 

– Căn cứ Luật trọng tài thương mại 2010; 

– Căn cứ vào sự thỏa thuận của hai bên  

Hôm nay ngày 05/01/2018 

Các bên gồm có: 

I. Bên bán: Công ty TNHH Hà Bình (Bên A) 

Đại diện: ông Trần Ngọc Văn Chức vụ: Phó Giám Địa chỉ: thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên Điện thoại: 0321.963177 – 0321.964425 Fax: 0321.964834 

đốc 

Tài khoản: Số 111.10132836.01.0 tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ  thương Việt Nam, thành phố Hà Nội 

Mã số thuế: 0900181214 – 1 

II. Bên mua: Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (Bên B) 

Đại diện: ông Nguyễn Ngọc Tiến Chức vụ: Giám đốc 

Địa chỉ: Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội 

Điện thoại: 04.8766750 Fax: 04.8767431 

Tài khoản: 4311.01.000046 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông  thôn Việt nam, Hà Nội 

Mã số thuế: 0100508975 – 1 

Sau khi bàn bạc, hai bên đã thống nhất ký hợp đồng mua bán hàng hóa với  các điều khoản sau: 

Điều 1. Hàng hóa, số lượng, giá cả 

– Hàng hóa – Bột mì. 

– Số lượng: 300 tấn/tháng

– Giá cả: theo giá thị trường từng thời điểm do hai bên thỏa thuận và được  thể hiện trên Hóa đơn GTGT bên A xuất cho bên B. 

Điêu 2. Giao hàng, quy cách, phẩm chất hàng hóa 

– Giao hàng: hàng được giao tại kho bên A. Bốc xếp mỗi bên chịu một đầu.

– Quy cách: bột mì được đóng trong bao PP trọng lượng tịnh 40kg/bao

– Phẩm chất: theo thỏa thuận của hai bên 

Điều 3. Hình thức hợp đồng 

Bên B thanh toán cho bên A bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong vòng 20  ngày kể từ ngày nhận theo từng đợt nhận hàng. Nếu chậm trả phải chịu mức lãi suất theo ngân hàng trên giá trị chậm trả. 

Điều 4. Thời hạn thanh toán 

Hợp đồng có giá trị thực hiện từ tháng 01/2018 đến 31/12/2018 

Điều 5. Cam kết chung 

Hai bên cam kết thực hiện đúng theo những điều khoản đã ký trong hợp  đồng. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh cần sửa đổi, bổ sung hay trở ngại  gì thì hai bên cùng nhau bàn bạc cụ thể để làm phụ lục hợp đồng, không bên nào  được quyền tự hủy bỏ hợp đồng. Nếu có xảy ra tranh chấp mà hai bên không giải quyết được bằng thương lượng thì sẽ đưa ra Tòa án kinh tế tỉnh Hưng Yên để giải  quyết. 

Hợp đồng được thành lập 4 bản, mỗi bên giữ 2 bạn có giá trị pháp lý như nhau. 

ĐẠI DIỆN BÊN B ĐẠI DIỆN BÊN A 

(đã ký, đóng dấu) (đã ký, đóng dấu) 


IV. Hợp đồng mua bán bột mì 2

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH
T.T YÊN MỸ – H. YÊN MỸTỈNH HƯNG YÊN
Số: 03/01/HĐ.2017/HB
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

HỢP ĐỒNG MUA BÁN BỘT MÌ 

– Căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015; 

– Căn cứ Luật thương mại 2005; 

– Căn cứ Luật trọng tài thương mại 2010; 

– Căn cứ vào sự thỏa thuận của hai bên  

Hôm nay, ngày 5/1/2017, Các bên gồm có: 

III. Bên bán: Công ty TNHH Hà Bình (Bên A) 

Đại diện: ông Trần Ngọc Văn Chức vụ: Phó Giám đốc Địa chỉ: thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Điện thoại: 0321.963177 – 0321.964425 Fax: 0321.964834 Tài khoản: Số 111.10132836.01.0 tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ  thương Việt Nam, thành phố Hà Nội 

Mã số thuế: 0900181214 – 1 

IV. Bên mua: Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (Bên B) 

Đại diện: ông Nguyễn Ngọc Tiến Chức vụ: Giám đốc 

Địa chỉ: Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội 

Điện thoại: 04.8766750 Fax: 04.8767431 

Tài khoản: 4311.01.000046 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông  thôn Việt nam, Hà Nội 

Mã số thuế: 0100508975 – 1 

Sau khi bàn bạc, hai bên đã thống nhất ký hợp đồng mua bán hàng hóa với  các điều khoản sau: 

Điều 1. Hàng hóa, số lượng, giá cả 

– Hàng hóa – Bột mì. 

– Số lượng: 300 tấn/tháng 

– Giá cả: theo giá thị trường từng thời điểm do hai bên thỏa thuận và được  thể hiện trên Hóa đơn GTGT bên A xuất cho bên B. 

Điêu 2. Giao hàng, quy cách, phẩm chất hàng hóa

– Giao hàng: hàng được giao tại kho bên A. Bốc xếp mỗi bên chịu một đầu. – Quy cách: bột mì được đóng trong bao PP trọng lượng tịnh 40kg/bao – Phẩm chất: theo thỏa thuận của hai bên 

Điều 3. Hình thức thanh toán 

Bên B thanh toán cho bên A bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong vòng 20  ngày kể từ ngày nhận theo từng đợt nhận hàng. Nếu chậm trả phải chịu mức lãi suất  theo ngân hàng trên giá trị chậm trả. 

Điều 4. Thời hạn hợp đồng 

Hợp đồng có giá trị thực hiện từ tháng 01/2017 đến 31/12/2017 

Điều 5. Cam kết chung 

Hai bên cam kết thực hiện đúng theo những điều khoản đã ký trong hợp  đồng. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh cần sửa đổi, bổ sung hay trở ngại  gì thì hai bên cùng nhau bàn bạc cụ thể để làm phụ lục hợp đồng, không bên nào  được quyền tự hủy bỏ hợp đồng. Nếu có xảy ra tranh chấp mà hai bên không giải  quyết được bằng thương lượng thì sẽ đưa ra Tòa án kinh tế tỉnh Hưng Yên để giải  quyết. 

Hợp đồng được thành lập 4 bản, mỗi bên giữ 2 bạn có giá trị pháp lý như nhau. 

ĐẠI DIỆN BÊN B ĐẠI DIỆN BÊN A 

Giám đốc Phó Giám đốc 

(đã ký, đóng dấu) (đã ký, đóng dấu) 


V. Giấy uỷ quyền

CTY TNHH HÀ BÌNH
NM BỘT MỲ YÊN MỸ- HƯNG YÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hưng Yên, ngày 15 tháng 03 năm 2016 

GIẤY ỦY QUYỀN 

  • Căn cứ quyết định số: 42/QĐ-UB ngày 13/01/2000 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên cấp về việc thành lập Công ty TNHH Hà Bình 
  • Căn cứ vào tình hình hiện tại của Công ty. 

Tôi tên là: PHẠM HOÀNG KHÁNH 

Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH Hà Bình 

Trụ sở: Nhà máy xay Yên Mỹ, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Nay ủy quyền cho: 

Ông: TRẦN NGỌC VĂN 03 

Nơi công tác: Công ty TNHH Hà Bình 

Chức vụ: Phó Giám đốc 

Trụ sở: Nhà máy xay Yên Mỹ, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Nội dung ủy quyền: 

Thay mặt tôi ký kết các hợp đồng kinh tế, Hợp đồng tín dụng, các văn bản  pháp lý liên quan đến việc tổ chức điều hành và kinh doanh của Công ty TNHH Hà  Bình 

Địa chỉ: Nhà máy xay Yên Mỹ, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Thời hạn ủy quyền: từ ngày 15/03/2016 đến ngày 30/12/2017  

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung ủy quyền trên. 

CHỮ KÝ CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ỦY QUYỀN CHỮ KÝ CỦA NGƯỜI ỦY QUYỀN


VI. Bản xác nhận công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

BẢN XÁC NHẬN CÔNG NỢ 

(Giữa Công ty TNHH Hà Bình và Công ty Kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến) 

Tính đến tháng 3/2018, Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt  Tiến xác nhận còn nợ công ty Hà Bình 613.000.000 đồng (Bằng chữ: sáu trăm  mười ba triệu đồng). 

Biên bản được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản. 

Hưng Yên, ngày 31/3/2018 

Công ty TNHH Hà Bình Công ty Việt Tiến


VII. Công văn đề nghị thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

Kính gửi: Công ty TNHH KD và CB lương thực Việt  

Tiến V/v thanh toán công nợ 

Căn cứ vào tình hình công nợ của Công ty kinh doanh và chế biến lương  thực Việt Tiến còn nợ công ty TNHH Hà Bình theo bản hợp đồng kinh tế của từng  năm giữa hai công ty tính đến nay số tiền còn nợ đọng là 617.000.000 đồng quá hạn  đã lâu, mức độ thanh toán quá chậm. Bắt đầu từ tháng 4/2018, công ty chúng tôi sẽ  không giao hàng cho công ty Việt Tiến do công ty Việt Tiến còn nợ nhiều tiền hàng  chưa thanh toán. Chúng tôi yêu cầu công ty Viết Tiến phải trả nợ gốc và tiền lãi  phát sinh trên số tiền chậm thanh toán từ tháng 4/2018. 

Hai bên đã thống nhất nội dung với nhau về việc thanh toán trả nợ của  Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến trả tiền cho công ty TNHH  Hà Bình và có cụ thể trả lời bằng văn bản với Công ty TNHH Hà Bình. Nhưng đến  nay công ty TNHH Hà Bình chúng tôi vẫn chưa nhận được văn bản trả lời của Quý  Công ty. 

Trên tinh thần hợp tác chúng tôi mong nhận được sự trả lời của Quý Công ty. 

Ngày 04 tháng 4 năm 2018 

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH 

GIÁM ĐỐC


VIII. Công văn trả lời thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2018 

Kính gửi: Ông Giám đốc Công ty TNHH bột mì Hà Bình 

Đầu tiên tôi xin gửi tới Ông và toàn thể Quý Công ty lời chúc sức khỏe và  lời chào trân trọng nhất, thay mặt Công ty Việt Tiến tôi xin chân thành cảm ơn Quý  Công ty về sự hợp tác và giúp[ đỡ của Quý Công ty đối với Công ty chúng tôi trong  thời gian qua. 

Sau khi bàn bạc Công ty chúng tôi xin đề nghị với Quý Công ty về kế  hoạch thanh toán. Tại thời điểm này thị trường mì ăn liền tiêu thụ đang rất chậm,  Quý Công ty hầu như đều bị giảm sản lượng trong đó có Công ty Việt Tiến vì vậy  ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh của Công ty Việt Tiến chúng tôi. Như  đã trao đổi với Quý Công ty về tình hình hoạt động của Công ty Việt Tiến trong  thời gian qua: vừa phải đối phó với biến động giá vật tư, nguyên liệu, vừa triển khai  đầu tư mở rộng sản xuất làm ảnh hưởng đến tiến độ thanh toán công nợ với Quý  Công ty. Với số công nợ còn lại của Quý Công ty, chúng tôi sẽ thanh toán dần hàng  tháng tùy theo điều kiện sản xuất kinh doanh và khả năng cho phép. 

Thưa Quý công ty trong thời gian tới khi mùa vụ thuận lợi và kết thúc đầu tư đưa xưởng mới vào hoạt động, chúng tôi sẽ có điều kiện để rút ngắn thời gian  thanh toán cho Quý Công ty và cụ thể nếu trong kỳ có điều kiện thuận lợi. 

Việc không giao hàng tiếp tục của Qúy công ty từ tháng 4/2018 dẫn đến các  thiệt hại cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn phải trả lương cho công nhân, phải trả nợ ngân hàng và phải chịu tiền mua chênh lệch giá bột mì của công ty khác nên chúng  tôi không đồng ý. 

Trên tinh thần hợp tác chúng tôi mong nhận được sự trả lời của Quý Công  ty và yêu cầu công ty tiếp tục giao hàng cho chúng tôi 

CÔNG TY KD CBLT VIỆT TIẾN 

GIÁM ĐỐC 


IX. Công văn đề xuất thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

Kính gửi: Công ty TNHH KD và CB lương thực Việt Tiến

V/v thanh toán công nợ 

Căn cứ vào tình hình công nợ của Công ty kinh doanh và chế biến lương  thực Việt Tiến còn nợ công ty TNHH Hà Bình theo Bản hợp đồng kinh tế của từng  năm giữa hai công ty tính đến nay số tiền còn nợ đọng quá hạn đã lâu, mức độ  thanh toán quá chậm. 

Theo nội dung công văn số 04 thì Công ty TNHH Hà Bình chúng tôi không  thể chấp nhận được với nội dung chung chung không cụ thể về vấn đề trả nợ, làm  cho Công ty Hà Bình không thể xác định việc thu tiền và trả các khoản nợ đến hạn  của Công ty chúng tôi. Chúng tôi không chịu trách nhiệm gì đối với các thiệt hại  của công ty Việt Tiến bởi vì hợp đồng kinh tế ngày 5/1/2018 không phải do giám đốc của công ty Việt Tiến ký kết. 

Vì vậy, chúng tôi xin thông báo với Quý Công ty đến thương lượng, làm  việc tại Văn phòng công ty chúng tôi vào ngày 30/6/2018. 

Trân trọng kính chào. 

Ngày 10 tháng 06 năm 2018 

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH


X. Công văn từ chối thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Kính gửi: Công ty TNHH Hà Bình 

Theo công văn gần đây nhất chúng tôi đã nói rõ những khó khăn trong  sản xuất kinh doanh và có thiện chí sẽ tiếp tục thanh toán dần khoản nợ cũ. Nay Công ty chúng tôi nhận được Công văn số 08/11-HB của Quý  Công ty. Chúng tôi xin được thông báo: 

– Tiền lãi do chậm thanh toán tiền hàng chúng tôi không có trách nhiệm phải trả. 

– Yêu cầu công ty Hà Bình bồi thường thiệt hại cho chúng tôi do đơn  phương chấm dứt hợp đồng kinh tế ký ngày 5/1/2018. Các thiệt hại cụ thể gồm  có: 

– Trả lương cho cán bộ nhân viên 

– Đóng BHXH, BHYT 

– Khấu hao tài sản cố định 

– Trả lãi vay ngân hàng 

– Tiền chênh lệch giá mua bột mì 

Tổng cộng các thiệt hại ước tính 400.000.000 đồng. 

Công ty chúng tôi sẽ đến thương lượng giải quyết tranh chấp với công  ty Hà Bình theo Công văn số 08/11-HB. 

CÔNG TY KD CBLT VIỆT TIẾN

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com