Điểm giống và khác nhau giữa Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Tô Hoài và Kim Lân gặp gỡ nhau ở quan điểm sáng tác, đều viết về người nông dân nhưng ở hai người họ vẫn có những điểm khác biệt. Hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về Điểm giống và khác nhau giữa Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ để hiểu rõ hơn về giá trị mà hai tác giả muốn gửi gắm nhé

1. Dàn ý điểm giống và khác nhau giữa Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất:

1.1. Mở bài:

Giới thiệu về hai tác giả và tác phẩm.

1.2. Thân bài:

Điểm giống nhau: Ở Mị và Thị đều là những người phụ nữ có thân phận nhỏ bé bị xã hội vùi dập chịu nhiều đau khổ. Thế nhưng họ vẫn luôn tràn đầy sức sống, luôn hướng về những điều tốt đẹp và luôn đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình.

Điểm khác: Tuy có sự gặp gỡ trong tư tưởng, nhưng cách thể hiện của Tô Hoài và Kim Lân lại có những nét đặc sắc không pha trộn:

– Mị: là người con có hiếu, tài sắc vẹn toàn, chỉ vì món nợ của cha mẹ mà phải làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Sức sống trong Mị chưa bao giờ bị dập tắt.

– Thị: là nạn nhân của nạn đói, bị cái đói bào mòn đi cả về hình hài và nhân cách.

Số phận và cảnh ngộ của người nông dân trong hai tác phẩm:

a. Vợ chồng A Phủ:

Đối với Mị  và A Phủ là những con người đầy bi kịch trước chế độ cũ

b. Vợ nhặt

Tràng, Thị, Bà cụ Tứ do sự tàn khốc của xã hội cũ nên bị dồn đến đường cùng vì đói và chết

Điểm giống:

– Nỗi nghèo khổ, tuyệt vọng của những người có hoàn cảnh khó khăn, bất công.

– Ngòi bút giàu chất hiện thực của hai t/g.

Sự khác biệt:

– Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ: con người bị tước quyền sống, quyền sống; nỗi khổ của người lao động do bọn chúa phong kiến gây ra.

– Trong tác phẩm Vợ Nhặt: người lao động nghèo khổ và chết chóc; đều là do thực dân-phát xít gây ra.

Điểm giống và khác nhau trong tư duy nhân đạo:

– Cảm thông, chia sẻ trước nỗi khổ của con người.

– Lên án, phê phán những thế lực đã tước đoạt, chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

– Đi sâu khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người.

Vợ chồng A Phủ:

– T/g tập trung vào nỗi khổ của người lao động ở góc độ bị tước đoạt quyền sống

– Ca ngợi con người có sức sống tiềm ẩn, sức mạnh tự giải phóng

– Trực tiếp lên án, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, điển hình là thống lí và con trai Pá Tra.

– T/g đã đưa nhân vật tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống mới tràn đầy sức sống

Vợ Nhặt:

– Xoáy sâu vào nỗi khổ của người lao động năm Đinh Dậu.

– Ca ngợi tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.

– Gián tiếp lên án, phê phán bọn thực dân-phát xít.

– T/g thể hiện niềm tin vào một ngày mai tươi sáng.

1.3. Kết bài:

Đánh giá lại vấn đề: dù hai tác giả xây dựng hình tượng nhân vật của mình khác nhau, nhưng đều có điểm chúng trong tư tưởng nhân đạo.

2. Phân tích điểm giống và khác nhau giữa Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ hay nhất:

2.1. Mở bài:

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam 1945 – 1975, cùng với thơ, truyện ngắn là một trong những thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Bên cạnh những truyện ngắn có giá trị về đề tài chiến tranh và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, còn có những truyện ngắn đặc sắc viết về cuộc sống đời thường mới mẻ, phản ánh số phận người lao động, nhất là số phận con người.

Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Vợ chồng A Phủ của Kim Lân là những tác phẩm tiêu biểu, có giá trị nhân văn sâu sắc về số phận con người, thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn về cuộc đời. Bên cạnh những nét chung, mỗi tác phẩm đều có những nét riêng tạo nên giá trị và sức sống lâu bền trong nền văn học nước nhà.

2.2. Thân bài:

a) Giới thiệu chung:

– Con người là trung tâm của mọi công trình bác học nên số phận con người, đặc biệt là số phận người phụ nữ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ lớn xưa nay. Như Gorki có bốn câu thơ tuyệt vời:

“Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu thương cảnh những sầu
Đời không mẹ hiền, không phụ nữ
Anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu…

– Vấn đề số phận người phụ nữ cũng trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học Việt Nam qua các thời đại. Đó là số phận của một tài sắc Kiều và số phận của một kẻ chinh phụ phải sống trong cô đơn, sầu khổ; một cung nữ sắc nước hương trời bị vua ghẻ lạnh, phải sống cảnh lạnh giá; Hồ Xuân Hương thông minh, sắc sảo, khao khát hạnh phúc ngọt ngào nhưng cuộc đời nhiều cay đắng, u ám. Số phận của người phụ nữ trong văn học xưa là bất hạnh, đau khổ, bế tắc. Đến với các tác phẩm văn học hiện đại, ta sẽ thấy các nhà văn đã thổi vào số phận người phụ nữ một luồng sinh khí mới.

b) Nhân vật nữ trong hai tác phẩm:

– Các nhân vật nữ trong “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt” là những người dân lao động có cuộc đời bất hạnh, khổ cực. Nhưng các tác giả Tô Hoài, Kim Lân lại có cách nhìn sự vật, hiện tượng theo hướng vận động đi lên nên có cách đánh giá khác về số phận của những người phụ nữ này. Số phận nhân vật đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.

– Mị trong tác phẩm Vợ A Phủ của Tô Hoài sinh ra trong một gia đình nghèo, bị bọn thống lí áp bức, đày ải mà tiêu biểu là thống lí Pá Tra. Cô tiêu biểu cho số phận người phụ nữ Mèo vùng núi Tây Bắc thời kháng chiến chống Pháp.

Mị là cô gái xinh đẹp, dũng cảm, hiếu thảo. Với những phẩm chất tốt đẹp đó, bạn xứng đáng được hạnh phúc. Và quả thật tôi đã sống thật đẹp những khoảnh khắc trăng rằm dù trong hoàn cảnh nghèo khó. Nhưng tương lai tươi trẻ với hạnh phúc và tình yêu đã không đến với cô gái Mèo tội nghiệp ấy. Chỉ vì nợ nần chồng chất bấy lâu Mị bị bắt đem về làm dâu để trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Trong những ngày sống trong ngục quan thống lý, tôi đã phải chịu biết bao đau đớn tủi nhục. Tôi bị tra tấn không chỉ về thể xác mà cả về tinh thần. Như vậy, cũng như bao người dân lao động khác, vì nghèo, tôi đã trở thành nô lệ cho nhà giàu. Lần đầu về làm dâu để xóa nợ, người phụ nữ này đã phản đối kịch liệt. Đã có lúc tôi muốn tự tử nhưng vì thương bố nên dù có chết thì món nợ vẫn còn đó. Cha tôi còn khổ hơn bây giờ tôi đành âm thầm chấp nhận kiếp trâu ngựa.

Bị đày đọa trong địa ngục thống lý, Mị như đóa hoa dại héo úa theo năm tháng. Người con gái tài năng, trẻ đẹp, ham sống, yêu đời giờ chỉ còn là một người phụ nữ với thân xác khô héo, tâm hồn lạnh lẽo và trống rỗng. Từ đó khổ lâu, khổ cũng quen. Mị ngày càng ít nói, Mị gần như tê liệt với cuộc sống, mất hết cảm giác về thời gian và không gian. Cuộc đời Mị chỉ thu hẹp qua ô vuông ô cửa sổ mờ mờ bàn tay trắng, chẳng biết là sương hay là nắng, nó đen tối như số phận và tâm hồn tôi, khiến tôi thu mình lại như con rùa trong góc. Ở đó, cuộc đời tăm tối, tủi nhục của Mị được Tô Hoài khắc họa chân thực, cảm động. Hơn nữa, nhà văn không dừng lại ở đó mà còn phát hiện ra khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình yêu, hạnh phúc và tự do của người phụ nữ nghèo này bằng cách miêu tả sinh động sự hồi sinh trong ý thức. Không chỉ trong đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng đàn sôi động của những chàng trai làng đã đánh thức tình yêu cuộc sống trong tâm hồn Mị bấy lâu nay bị dập tắt bởi kiếp trâu ngựa khốn khổ. Mị nhớ về quá khứ tươi đẹp và cảm thấy tâm hồn mình như sống lại. Rồi Mị với tay lấy váy hoa, quấn tóc chuẩn bị đi chơi ngày đầu năm mới. Nhưng giữa lúc sức sống mãnh liệt cũng là lúc tôi bị đánh đập dã man. Mị bị A Sử thản nhiên trói vào cọc như một con vật. Thế là khát vọng sống của tôi bị dập tắt một cách tàn nhẫn.

Rồi một đêm, khi chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập và bị trói, Vì thương cảm những người cùng cảnh ngộ, vì thương người, Mị đã vượt qua nỗi sợ hãi khủng khiếp và dám nghĩ đến điều đó. Một hành động táo bạo: cắt dây cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà ngục thống lí. Mị đến Phiềng Sa gặp A Châu, người cán bộ trung kiên của Đảng, được A Châu giúp đỡ, Mị cùng du kích chiến đấu để giải phóng mình, giải phóng quê hương là lẽ tất yếu.

Như vậy, viết về số phận của những người phụ nữ ở đây, Tô Hoài đã đặt ra vấn đề về khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải thoát cho họ. Với khát vọng cao cả và sức sống mãnh liệt tiềm ẩn, tôi đến với cách mạng để làm cố vấn.

– Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, số phận con người chưa hoàn toàn bước sang một trang mới nhưng đến cuối tác phẩm đã hé mở cho họ một tương lai tốt đẹp. Ngay trong nhan đề “Vợ nhặt” cũng đã phần nào nói lên hoàn cảnh khó khăn của những số phận bị nạn đói khủng khiếp đe dọa, đe dọa cướp đi sinh mạng của họ. Nạn đói khiến bao người khiếp sợ, khiến số phận con người mong manh như chiếc lá vàng trước gió. Đó cũng là bức tranh chân thực về xã hội Việt Nam năm 1945, đặt nhân vật vào hoàn cảnh đó đã làm nổi rõ số phận và phẩm chất của nhân vật.

Số phận người đàn bà đầu tiên làm “vợ nhặt”:

– Cô còn chưa có tên, cái đói đã hủy hoại thể xác và tâm hồn cô: trông cô thật tiều tuỵ; quần áo rách rưới như tổ đỉa; cô ấy gầy, ngực nhỏ và khuôn mặt lưỡi cày xám xịt. Cô ngồi cùng các bạn trước chuồng ngựa trông thật thảm hại. Kim Lân không miêu tả gia cảnh của người phụ nữ này mà mở đầu cuộc sống của hai người quen biết nhau: một trò đùa của Tràng. Cái đói khiến Thị phải gợi ý với Tràng cho hai vợ chồng ăn hết bốn bát bánh rồi chạy đi làm vợ nhặt cho khách lạ.

– Đời người con gái hạnh phúc nhất là khi được rước dâu và phải theo Tràng về. Cái dáng bẽn lẽn, bối rối bước đi cách Tràng vài bước chân trong ánh mắt trêu chọc của đám trẻ con, người lớn sống trong xóm khiến trái tim người đọc xao xuyến. Đau nhất là cảnh cô ngồi ở mép giường, tay ôm chặt chiếc giỏ trước mặt. Vị trí ngồi của cô ấy bấp bênh như cuộc sống, trái tim và tương lai của cô ấy. Nhưng tình thương bao la của mẹ chồng và tấm lòng chân thành của Tràng đã xua đi nỗi sợ hãi và buồn bã. Sáng hôm sau, cô dậy sớm với điệu bộ nhẹ nhàng, chăm chỉ. Ở đây, số phận của cô đã khác. Từ một kẻ cô đơn cuối đường, bấu víu vào cái đói, cái bủn xỉn, chua ngoa, nhu nhược, chị đã trở thành một người phụ nữ hiền lành, đoan trang. Thị đã có một mái ấm thực sự với chồng và mẹ chồng luôn yêu thương cô.

Bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng là một số phận người phụ nữ gây cho người đọc nhiều nỗi đau. Người đọc có thể tìm thấy trong hình tượng nhân vật này biết bao người mẹ nghèo Việt Nam cần cù, chịu thương, chịu khó, hết lòng yêu thương con cái và luôn hướng đến những điều tốt đẹp, một tương lai tươi sáng.

– Dáng người gầy guộc, khuôn mặt ủ rũ của chị đã nói lên tất cả những số phận đáng thương dưới đáy xã hội láng giềng. Thế nên, khi một người phụ nữ lạ mặt xuất hiện bên giường bệnh của con mình, bà cụ vô cùng bất ngờ và choáng váng. Và khi nhận ra đó chính là cô con dâu mới, ông mới nhận ra bao nhiêu xót xa, thương hại cho số phận của đứa con trai, hai hàng nước mắt của bà lão. Đó là giọt nước mắt của người mẹ nghèo vừa mừng, vừa lo, vừa đáng thương, vừa xót xa. Thật không may, mẹ tôi không thể chăm sóc tôi. Bây giờ đã có vợ thì phải lấy vợ theo kiểu không tảo hôn hay bất kỳ nghi lễ nào khác mà ngày xưa ở quê mình thường được coi trọng.

– Nhưng dù vui hay buồn, lo hay tủi thì người mẹ Việt Nam trong bà Tứ vẫn sáng ngời một tấm lòng nhân ái bao la. Tiệc cưới ngày đói thật thê thảm: ở giữa là chiếc khăn rách, nải chuối nát và đĩa cháo mặn… Trong bữa ăn, bà Tứ kể nhiều chuyện hay sau đó bà nhìn trong cuộc sống với con cái của mình ánh mắt lạc quan “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Cuộc sống khắc nghiệt đầy đau khổ của con người buộc họ phải sống như những con vật. Nhưng nó không thể dập tắt được phần con người, chính con người trong lòng người mẹ khắc khổ ấy là nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của Kim Lân.

2.3. Kết bài:

Thông qua việc khắc họa chân thực, rõ nét những nỗi khổ của nhân vật phụ nữ và việc khám phá vẻ đẹp nội tâm của họ, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn. Đó là vấn đề phấn đấu để con người được sống trong tự do, hạnh phúc, yêu thương và gia đình.

3. Hoàn cảnh sáng tác của hai tác phẩm:

3.1. Hoàn cảnh sáng tác “Vợ chồng A Phủ”:

Vợ chồng A Phủ được in trong tập truyện “Truyện Tây Bắc”. Đây là tập truyện ngắn đoạt giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955). Được Tô Hoài sáng tác năm 1952. Đây là sản phẩm trí tuệ trong chuyến đi của Tô Hoài cùng đoàn quân giải phóng Tây Bắc. Suốt 8 tháng rong ruổi, họ cùng ăn, cùng ở, cùng sẻ chia, gắn bó như những người anh em vùng cao Tây Bắc. Và chính những trải nghiệm sống đầy ý nghĩa với người dân miền núi đã là nguồn cảm hứng để Tô Hoài thổi sức sống vào tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, xây dựng xuất sắc hình ảnh Mị và A Phủ với nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc.

3.2. Hoàn cảnh sáng tác “Vợ nhặt”:

Vợ nhặt là truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được in trong tuyển tập Những con chó xấu xí. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm trọ – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dở dang và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.

Theo dõi chúng tôi trên
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com