Quản lý Nhà nước về vấn đề xuất, nhập khẩu và thực tiễn áp dụng

Quản lý Nhà nước về vấn đề xuất, nhập khẩu và thực tiễn áp dụng.

Có thể khẳng định rằng nền kinh tế của Việt Nam sau nhiều năm đổi mới và chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang khẳng định được bước đi đúng hướng, đồng thời cũng tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện cả về nhân tố cấu thành cũng như hành lang pháp lý.

Mặt khác, có thể nói rằng sự giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Nếu một quốc gia chỉ đóng của không giao lưu với nền kinh tế khác và thực hiện cơ chế tự cung tự cấp thì quốc gia đó không thể nào phát triển được. Mà để có một nền kinh tế phát triển thì quốc gia đó phải tăng cường giao lưu hợp tác, thúc đẩy giao lưu, hội nhập với nền kinh tế bên ngoài để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam càng có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển kinh tế.

Nhìn vào thực trạng hiện nay, chúng ta thấy rằng Việt Nam vẫn là một nước được xếp vào nhóm đang phát triển, vẫn dựa vào nông nghiệp là chính, công nghiệp cũng chưa phát triển mạnh nhưng bù lại chúng ta có rất nhiều tiềm năng. Do đó, để đảm bảo cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước, thì phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một trong những biện pháp đó là phát triển kinh tế ngoại thương, mở rộng sự hợp tác với các nền kinh tế trên thế giới là một yêu cầu cấp bách.

Như vậy càng khẳng định rằng xuất nhập khẩu có vai trò cần thiết và quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong việc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh cả thế giới đang chống chọi với dịch Covid-19, vượt qua khó khăn, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 duy trì đà tăng trưởng dương. Điều này cho thấy, Việt Nam đã tận dụng tốt các cơ hội mang lại, cũng như thực thi hiệu quả các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy xuất khẩu. Với triển vọng thương mại toàn cầu sẽ khởi sắc hơn khi đại dịch Covid-19 được khống chế, sự tận dụng một cách hiệu quả các điều kiện thuận lợi từ những chiến lược hội nhập, khung khổ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết xuất, nhập khẩu của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng tốc bứt phá trong năm 2021 và những năm tiếp theo.

Hiểu được tầm quan trọng này, nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về vấn đề xuất, nhập khẩu và thực tiễn áp dụng” để nghiên cứu, tìm hiểu đồng thời đưa ra một số nhận xét và ý kiến đánh giá xoay quanh vấn đề cấp thiết này.

Kết cấu đề tài

Bài làm được chia làm hai phần chính bao gồm:

Phần 1: Một số vấn đề lý luận quản lý Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu. Phần này nêu ra những khái niệm liên quan và chỉ rõ những biện pháp quản lý của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật về vấn đề xuất, nhập khẩu. Đồng thời từ đó chỉ ra những đặc điểm và ý nghĩ của các biện pháp đó.

Phần 2: Thực tiễn quy định của pháp luật về quản lý các biện pháp xuất khẩu, nhập khẩu tại Việt Nam và thực trạng thực hiện. Từng mục sẽ đi vào phân tích, tìm hiểu chi tiết những vấn đề liên quan, trình bày thực tiễn áp dụng các biện pháp quản lý xuất, nhập khẩu tại Việt Nam.

Đưa ra những nhận xét về mặt tích cực cũng như hạn chế, từ đó đề ra một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với vấn đề xuất, nhập khẩu hiện nay.

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT, NHẬP KHẨU

1.1. Khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu

– Hoạt động xuất, nhập khẩu là một hoạt động kinh tế phản ánh sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa trong nước và nước ngoài thông qua việc mua, bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia. Mục tiêu chính của xuất, nhập khẩu là tạo ra cầu nối giữa cung, cầu hàng hóa dịch vụ của thị trường trong và ngoài nước.

– Căn cứ Khoản 1 Điều 28 Luật thương mại 2005 đã nêu rõ khái niệm xuất khẩu như sau: “Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.”

– Căn cứ Khoản 1 Điều 28 Luật thương mại 2005 cũng đã nêu khái niệm nhập khẩu như sau: Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

1.2.  Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu

Quản lý nhà nước về hoạt đông xuất, nhập khẩu là sự tác động của Nhà nước lên các chủ thể chịu trách nhiệm về hoạt động xuất, nhập khẩu thông qua quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách và quy định pháp luật; thiết lập và sử dụng hiệu quả công cụ xuất, nhập khẩu; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu ; kiểm tra, kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu, tạo ra môi trường thuận lợi nhất để hoạt động xuất, nhập khẩu phát triển đúng định hướng phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, có hiệu quả một cách bền vững trong điều kiện biến động của môi trường trong nước và thương mại quốc tế.

CHƯƠNG II. THỰC TIỄN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT, NHẬP KHẨU

2.1. Các biện pháp quản lý

Theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại thương, có 5 nhóm biện pháp quản lý ngoại thương chính như sau:

– Các biện pháp hành chính;

– Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch;

– Biện pháp phòng vệ thương mại;

– Biện pháp kiểm soát khẩn cấp;

– Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương.

2.1.1. Các biện pháp hành chính

Các biện pháp hành chính (Chương II): Luật Quản lý ngoại thương quy định rõ các biện pháp quy định tại Chương này là sự đảm bảo hài hòa, lồng ghép giữa hai nguyên tắc cơ quan nhà nước chỉ được làm pháp luật cho phép và thương nhân được kinh doanh tất cả những gì pháp luật không cấm. Theo đó, các biện pháp mang tính hạn chế quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu được quy định nhằm đảm bảo lợi ích công cộng, an ninh quốc phòng, hoặc phù hợp cam kết quốc tế…phải thực hiện theo những nguyên tắc xác định trong Luật và chỉ được áp dụng đối với danh mục hàng hóa cụ thể. Những hàng hóa ngoài các danh mục này được tự do xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể các biện pháp như sau:

Về biện pháp cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu: Luật quy định nguyên tắc xác định Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, theo đó việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hàng hóa chỉ áp dụng đối với các trường hợp liên quan đến hàng hóa an ninh, quốc phòng chưa được phép, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục, môi trường, sức khỏe cộng đồng…và giao Chính phủ quy định chi tiết Danh mục. 

Về biện pháp quản lý theo giấy phép, điều kiện: Luật phân biệt rõ giấy phép xuất khẩu, giấy phép nhập khẩu mà doanh nghiệp phải có khi làm thủ tục thông quan hàng hóa với các điều kiện (không phải là giấy phép) mà doanh nghiệp chỉ cần đáp ứng để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Các loại giấy phép và điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu nói trên sẽ được Chính phủ quy định công khai, minh bạch để cộng đồng doanh nghiệp dễ dàng theo dõi, thực hiện, giám sát. 

Biện pháp chứng nhận xuất xứ hàng hóa, lưu hành tự do: Luật quy định về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa; giấy chứng nhận lưu hành tự do theo hướng quy định về việc doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo các Hiệp định thương mại tự do mới được ký kết như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). 

Quản lý hoạt động ngoại thương với các nước có chung biên giới: Luật quy định khung khổ pháp lý chung về đối tượng, hoạt động, địa điểm, phương thức và chính sách ưu đãi, đặc thù của hoạt động thương mại biên giới và nguyên tắc phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong hoạt động thương mại biên giới đồng thời quy định về điều hành, phối hợp quản lý hoạt động thương mại biên giới tại cửa khẩu biên giới đất liền; chính sách phát triển các hoạt động hỗ trợ thương mại tại cửa khẩu để tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập cảnh người, phương tiện giao thông vận tải qua các cửa khẩu biên giới đất liền và phát triển du lịch. 

Quản lý hàng hóa đối với khu vực hải quan riêng: Luật phân định rõ quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu giữa nội địa với các khu vực hải quan riêng, giữa các khu vực hải quan riêng với nhau cũng như giữa khu vực hải quan riêng với bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là trong cải cách thủ tục hành chính đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư.

Điểm mới của Luật là quy định chỉ áp dụng một lần các biện pháp quản lý ngoại thương đối với khu hải quan riêng. Quy định như trên giúp giảm thiểu thủ tục hành chính cho cộng đồng doanh nghiệp hoạt động trong các khu vực hải quan riêng đồng thời tận dụng được lợi thế của các khu này nhất là các khu kinh tế cửa khẩu hoặc khu kinh tế biển nơi có cửa khẩu, cảng biển thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa là nguồn nguyên liệu cần thiết phục vụ sản xuất.

2.1.2. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch

Luật Quản lý ngoại thương quy định mục tiêu áp dụng và kiểm tra hàng hóa đáp ứng yêu cầu của các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch nhằm thực hiện mục tiêu hệ thống hóa, pháp điển hóa, minh bạch hóa các quy định của pháp luật, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Điểm mới là Luật này đã quy định nguyên tắc tạo thuận lợi cho hàng hóa xuất khẩu, quản lý rủi ro trong thực hiện các biện pháp và kiểm tra chuyên ngành; phân định rõ các nhóm hàng hóa với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch cụ thể, đảm bảo mức độ phù hợp, hài hòa giữa quản lý nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước và thúc đẩy xuất khẩu.

Bên cạnh đó, Luật đã quy định hoạt động kiểm tra chuyên ngành, trong đó quy định cụ thể đối tượng kiểm tra, cơ quan tiến hành kiểm tra và trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra để thống nhất về cơ sở pháp lý, đối tượng, nguyên tắc, trách nhiệm của các Bộ, ngành trong thực hiện kiểm tra đối với hoạt động kiểm tra chuyên ngành đang được quy định rải rác tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.

2.1.3. Các biện pháp phòng vệ thương mại 

Nội dung của Luật Quản lý ngoại thương được pháp điển hóa, sửa đổi, bổ sung các nội dung cơ bản của tại 03 Pháp lệnh đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành đồng thời bổ sung nội dung mới về chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại, ứng phó với vụ việc do nước ngoài khởi xướng nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu quản lý trên thực tiễn, đảm bảo hiệu quả thực thi của các biện pháp này.

2.1.4. Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương 

Luật Quản lý ngoại thương quy định cụ thể một số trường hợp chính cần có sự can thiệp khẩn cấp đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa từ một hoặc một số đối tác thương mại xuất phát từ yếu tố khách quan hoặc chủ quan.

Các trường hợp áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp đối với hàng hóa bao gồm[1]:

  1. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra chiến tranh, tham gia chiến tranh, xung đột hoặc có nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến an ninh, lợi ích quốc gia của Việt Nam.
  2. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc chứng minh được là có đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa đó.
  3. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra sự cố, thiếu sót, sai sót kỹ thuật mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc chứng minh được là có ảnh hưởng trực tiếp, nghiêm trọng đến an toàn, sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa đó.
  4. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc có cơ sở khoa học chứng minh được sự ảnh hưởng đó.
  5. Mất cân đối nghiêm trọng của cán cân thanh toán.
  6. Các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định của pháp luật.

2.1.5. Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương

Luật Quản lý ngoại thương quy định về chính sách phát triển hoạt động ngoại thương như một trong những công cụ quản lý nhà nước quan trọng nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động ngoại thương theo cả hai chiều xuất khẩu và nhập khẩu. Theo đó, Nhà nước thúc đẩy phát triển hoạt động ngoại thương thông qua các biện pháp như: các biện pháp tín dụng, xúc tiến thương mại và các hoạt động hỗ trợ phát triển khác, với trọng điểm là xúc tiến thương mại.

Luật cũng quy định một số chính sách đặc thù trong phát triển ngoại thương đối với sản phẩm có lợi thế cạnh tranh mà trong nước sản xuất được cũng như các sản phẩm công nghệ và nguyên liệu đầu vào cần thiết phục vụ sản xuất trong nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo, các vùng có điều kiện địa lý – kinh tế khó khăn tham gia hoạt động ngoại thương.

2.2. Đặc điểm của biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu

Quản lý xuất, nhập khẩu là phương thức mà qua đó, Nhà nước tác động có định hướng theo những điều kiện nhất định đối với các đối tượng (chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nhằm đảm bảo cho sự vận động của hoạt động xuất, nhập khẩu hướng đến các mục tiêu kinh tế – xã hội đã định của Nhà nước.

Quản lí nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu là tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa; phát triển dịch vụ xuất khẩu, quản lý nhập khẩu hàng hóa. Đồng thời Quản lý hoạt Động xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài và thương nhân không có hiện diện tại Việt Nam; hoạt Động của các văn phòng, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam.

2.3. Ý nghĩa của quản lý nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu

Ý nghĩa của quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp các hoạt động lao động chung trên cơ sở xã hội hoá sản xuất và xuất nhập khẩu. lực lượng sản xuất và trình độ phát triển sản xuất hàng hoá càng cao thì càng cần thiết phải thực hiện vai trò này một cách chặt chẽ và nghiêm ngặt. Tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hàng hóa trong từng giai đoạn nhất định mà giữa các phân ngành của nền kinh tế có những mối quan hệ tỷ lệ phù hợp đảm bảo khai thác hợp lý các nguồn lực và phát triển.

Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thương xuyên hay biến động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như quốc tế luôn là những nguyên nhân phá vỡ những mối quan hệ tỷ lệ nói trên, trước tình hình đó, nhà nước là người nhận thức đúng các quy luật vận động phát triển, nắn vững và dự vạch ra cac chiến lược và kế hoạch phát triển thể chế hóa các chủ trương đường lối phát triển nông nghiệp thành các quy chế, luật lệ để hướng dẫn và sử dụng các kích thích kinh tế nhằm định hướng phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất, nhập khẩu nói riêng phát triển đúng hướng và có hiểu quả.

CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ XUẤT, NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

3.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quản lý xuất, nhập khẩu tại Việt Nam

3.1.1. Các biện pháp hành chính

Về biện pháp cấm, tạm ngừng xuất nhập khẩu

Trong bối cảnh, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, lần đầu tiên, Luật Quản lý ngoại thương đã khẳng định quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân chỉ bị hạn chế nếu thuộc các trường hợp mà Luật quy định biện pháp cấm, tạm ngừng hoặc hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu. Riêng đối với đối tượng là thương nhân là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam, Luật quy định quyền, nghĩa vụ của các đối tượng này theo đúng các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 

Về quản lý theo giấy phép, theo điều kiện xuất khẩu nhập khẩu

Hàng năm, Bộ Công Thương đưa ra danh mục hàng hóa thuộc diện quản lý xuất, nhâp khẩu bằng hình thức xuất, nhập khẩu theo giấy phép, điều kiện. Căn cứ vào danh mục của Bộ Công Thương, các bộ, cơ quan ngang bộ công bố chi tiết hàng hóa kèm mã HS trên cơ sở trao đổi, thống nhất với Bộ Công Thương về danh mục hàng hóa và thống nhất với Bộ Tài Chính về mã HS. Cũng căn cứ vào danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép, điều kiện, các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định chi tiết về việc cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với quy định pháp luật và thực hiện việc cấp phép theo quy định.

Về hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu

Theo Luật quy định chi tiêt các biện pháp hạn chế bao gồm hạn chế về số lượng, thương nhân và cửa khẩu với nguyên tắc xác định loại hàng hóa, biện pháp này bao gồm thực hịện chế độ hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu, chỉ định thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

Cụ thể, đối với biện pháp hạn ngạch thuế quan. Đây là biện pháp Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO theo đó có 04 mặt hàng sẽ được Việt Nam duy trì cơ chế hạn ngạch thuế quan bao gồm trứng gia cầm, muối, đường, lá thuốc lá. Ngoài ra, Việt Nam còn áp dụng trong trường hợp có ưu đãi đặc biệt đối với một số đối tác thương mại đặc biệt như Lào, Campuchia hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Biện pháp hạn ngạch chỉ áp dụng hạn ngạch nhập khẩu trong các trường hợp : áp dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VERs); áp đặt nhưng phải tham vấn về đền bù với đối tác bị thiệt hại; theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Đối với biện pháp chỉ định thương nhân nhập khẩu, xuất khẩu. Đây là biện pháp Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO theo đó biện pháp này chỉ áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp thương mại nhà nước đối với một số mặt hàng như thuốc lá điếu, xuất bản phẩm…được cam kết tại Bảng 5 Đoạn 72 Báo cáo Ban Công tác gia nhập WTO của Việt Nam.

Về chứng nhận xuất xứ hàng hóa

Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa là văn bản hoặc các hình thức có giá trị pháp lý tương đương do cơ quan, tổ chức thuộc nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa cấp dựa trên quy định và yêu cầu liên quan về xuất xứ, chỉ rõ nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa đó.

Bộ Công Thương có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn kiểm tra việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa và việc tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu của thương nhân.

Bộ Tài chính có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan hải quan kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi thực hiện thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan.

Về chứng nhận lưu hành tự do

Chính Phủ quy định danh mục hàng hóa phải áp dụng giấy chứng nhận lưu hành tự do, đồng thời quy định thẩm quyền và trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS).

Giấy chứng nhận lưu hành tự do là văn bản chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp cho thương nhân xuất khẩu hàng hóa để chứng nhận hàng hóa đó được phép lưu hành tự do tại nước xuất khẩu.[2]

CFS là chứng nhận bắt buộc phải có để làm hồ sơ xin cấp giấy phép công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đối với một số thực phẩm nhập khẩu đặc biệt như mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, phụ gia, hương liệu thực phẩm…

Thẩm quyền quản lý CFS sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu và cấp CFS sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu của các bộ ngành được quy định bởi Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn với các lĩnh vực tương ứng.

Về các biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương khác

Theo Luật Quản lý ngoại thương 2017, các biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương khác bao gồm:

  • Tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, chuyển khẩu:
  • Quá cảnh hàng hóa;
  • Đại lý mua bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài;
  • Ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu;
  • Gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài và đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài.

Về hoạt động ngoại thương với các nước có chung biên giới

Ngày 23/1/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2018/NĐ-CP quy định  chi tiết về hoạt động thương mại biên giới. 

Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá nhân có đăng ký kinh doanh (thương nhân) được thực hiện mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thương nhân có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam  thực hiện mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới theo cam kết của Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới của thương nhân được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân hoặc cá nhân của nước có chung biên giới bằng hợp đồng bằng văn bản hoặc bảng kê hàng hóa mua bán, trao đổi qua biên giới (thương nhân Việt Nam ký tên, đóng dấu và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của bảng kê).

Hàng hóa mua bán, trao đổi qua biên giới của thương nhân phải tuân thủ quy định của Luật Quản lý ngoại thương và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.

Về quản lý hàng hóa đối với khu vực hải quan riêng

Trong Luật Quản lý ngoại thương, vấn đề quản lý hàng hóa trong khu vực hải quan riêng được quy định từ Điều 56 đến Điều 59.

Cụ thể: Điều 56, áp dụng biện pháp quản lý hàng hóa xuất khẩu đối với khu vực hải quan riêng. Trong đó, áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa được đưa từ khu vực hải quan riêng ra nước ngoài như đối với hàng hóa được đưa từ nội địa ra nước ngoài; không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ nội địa vào khu vực hải quan riêng. Tuy nhiên, hàng hóa đưa từ nội địa vào khu vực hải quan riêng phải chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đồng thời chỉ áp dụng một lần các biện pháp quản lý hàng hóa xuất khẩu đối với khu vực hải quan riêng.

Luật quy định không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương, trừ biện pháp cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, biện pháp kiểm dịch đối với hàng hóa được đưa từ nước ngoài vào khu vực hải quan riêng. Tuy nhiên, hàng hóa được đưa từ nước ngoài vào khu vực hải quan riêng phải chịu sự giám sát của cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đồng thời chỉ áp dụng một lần các biện pháp quản lý hàng hóa nhập khẩu đối với khu vực hải quan riêng.

Về áp dụng biện pháp quản lý mua bán hàng hóa giữa các khu vực hải quan riêng, Điều 58 quy định: Không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa mua bán, vận chuyển giữa các khu vực hải quan riêng trong lãnh thổ Việt Nam.

Mặt khác, việc vận chuyển hàng hóa giữa các khu vực hải quan riêng phải chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan và quy định khác của pháp luật có liên quan.

3.1.2. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch

Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 đã quy định các các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch tại Chương III. Luật quy định việc áp dụng biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng hàng hóa; bảo vệ an toàn sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường sinh thái, đa dạng sinh học; phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm và bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia.

Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch hết sức cần thiết và  có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an toàn sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường sinh thái, đa dạng sinh học; phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm và bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, khi áp dụng các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch cũng cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc do pháp luật quy định. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 60 Luật quản lý ngoại thương năm 2017 đã quy định việc áp dụng biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

  • Một là, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và tránh tạo ra rào cản không cần thiết đối với hoạt động ngoại thương, nhất là đối với hàng hóa xuất khẩu.
  • Hai là, áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong điều kiện cho phép, bảo đảm yêu cầu quản lý và phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
  • Ba là, bảo đảm các nguyên tắc khác theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm, đo lường, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, thú y, phòng, chống bệnh truyền nhiễm.

3.1.3. Các biện pháp phòng vệ thương mại

Các biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến bao gồm: biện pháp chống bán phá giá, biện pháp trợ cấp và biện pháp tự vệ.

Biện pháp chống bán phá giá: đây là biện pháp để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp nhằm chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh. Khi hàng hoá bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá  như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán pháp giá và biện pháp phổ biến nhất hiện nay.

Biện pháp chống trợ cấp: là biện pháp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu.

Biện pháp tự vệ: là một công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước trong trường hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những tác động không thuận lợi gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu.

Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định pháp luật về các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các văn bản pháp luật của Việt Nam quy định về vấn đề này bao gồm:

  • Luật Quản lý ngoại thương 2017 ngày 12 tháng 6 năm 2017  quy định về việc chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
  • Nghị định 10/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quản lý ngoại thương về biện pháp phòng vệ thương mại.
  • Luật cạnh tranh năm 2018 số 23/2018/QH14 mới nhất

3.1.4. Biện pháp kiểm soát khẩn cấp

Theo Điều 100 Luật Quản lý ngoại thương 2017, chỉ được áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp trong những trường hợp:

1. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra chiến tranh, tham gia chiến tranh, xung đột hoặc có nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến an ninh, lợi ích quốc gia của Việt Nam.

2. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc chứng minh được là có đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa đó.

3. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra sự cố, thiếu sót, sai sót kỹ thuật mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc chứng minh được là có ảnh hưởng trực tiếp, nghiêm trọng đến an toàn, sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa đó.

4. Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc có cơ sở khoa học chứng minh được sự ảnh hưởng đó.

5. Mất cân đối nghiêm trọng của cán cân thanh toán.

6. Các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định của pháp luật.

Và khi áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp, cần tuân thủ các quy tắc sau:

1. Biện pháp kiểm soát khẩn cấp chỉ được áp dụng trong các trường hợp quy định.

2. Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp hành chính phù hợp theo quy định tại Chương II của Luật này.\

3. Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp phải đánh giá, lựa chọn biện pháp gây ít cản trở nhất cho hoạt động ngoại thương.

4. Biện pháp kiểm soát khẩn cấp được bãi bỏ khi không còn các trường hợp quy định hoặc thông qua thương lượng, đàm phán.[3]

3.1.5. Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương

Nhà nước có chính sách phát triển hoạt động ngoại thương thông qua các biện pháp sau đây:

a) Hoạt động tín dụng do Chính phủ quy định phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

b) Xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương bao gồm hỗ trợ xây dựng, bảo vệ, phát triển, quảng bá thương hiệu sản phẩm trong nước ra thị trường nước ngoài; thiết lập và cung cấp hệ thống thông tin xúc tiến thương mại; kết nối giao thương giữa các thương nhân nhằm thúc đẩy xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu quả để phục vụ sản xuất trong nước hoặc gia công xuất khẩu;

c) Các biện pháp khác nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, nhập khẩu

3.2. Thực trạng chấp hành quy định trong quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu tại Việt Nam – một số vụ việc cụ thể

3.2.1. Các biện pháp hành chính

– Tác động từ dịch Covid-19 trên khắp thế giới đã khiến nhiều quốc gia tích trữ gạo với số lượng, Việt Nam cũng có thể đối mặt với nguy cơ thiếu gạo. Chính vì vậy Bộ Công Thương đã chủ động đề xuất với Thủ tướng Chính phủ xem xét tạm ngưng xuất khẩu gạo đến tháng 5/2020. Trong những tháng đầu năm 2020, diễn biến nhanh, phức tạp của dịch bệnh Covid-19 đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng, khó lường tới tình hình kinh tế – xã hội của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Dịch bệnh đã và đang tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới toàn bộ các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và có thể ảnh hưởng lâu dài. Trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, nhu cầu đối với một số chủng loại hàng hóa thiết yếu, trong đó có gạo, đang tăng nhanh trên toàn cầu. Bên cạnh nhu cầu thông thường mà các nước xuất khẩu có thể đáp ứng, đã xuất hiện nhu cầu dự trữ với số lượng lớn khiến cán cân cung cầu mất cân đối cục bộ, giá cả biến động mạnh, tiềm ẩn khả năng gây ra bất ổn xã hội. Trên cơ sở ý kiến của các bộ, ngành, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến kết luận về một số biện pháp để bảo đảm an ninh lương thực, trong đó có việc tạm dừng xuất khẩu gạo từ nay đến hết tháng 5/2020.

– Với hoạt động xuất nhập khẩu với các nước có chung đường biên giời, Chính phủ cũng có yêu cầu kiểm soát chặt chẽ, tránh tình trạng xuất lậu, nhập lậu. Như trong thời gian trước tình trạng cá tầm kém chất lượng nhập lậu từ biên giới Trung Quốc đã gây ảnh hưởng nhất định đến ngành nghề nuôi cá tầm tại Việt Nam

– Thực tế nhiều doanh  nghiệp nắm rất rõ về quy trình cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhưng cố tình giảm thiếu các khâu, các bước trong quá trình khai  báo hay cố tình quên các chứng từ về hàng hóa để chứng minh nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa. Có những doanh nghiệp cố tình gian lận sử dụng sai mẫu nhằm hưởng ưu đãi về thuế quan. Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam ủy thác cho các công ty vận tải và giao nhận, các công ty thuê tàu làm thủ tàu làm thủ tục trong đó có việc làm giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu. Điều đó  thực sự thuận tiện và nên làm với các công ty giao nhận đôi khi năm chắc thủ tục hơn doanh nghiệp. Nhưng đối với những mặt hàng phức tạp, cần giải trình cặn kẽ nguồn gốc của từng thành phần nguyên liệu vì các cá nhân được ủy thác không trực tiếp thu mua, sản xuất hay gia công chế biến sản phẩm dẫn đến khó khăn cho cả doanh nghiệp và cơ quan cấp giấy chứng nhận xuất xứ.

– Các doanh nghiệp hiện nay chưa thực sự quan tâm đến các chương trình ưu đãi về thuế quan, đây là một vấn đề ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ bởi các chương trình ưu đãi về thuế quan thường gắn liền với giấy chứng nhận xuất xứ bỏ qua sự theo dõi  các chương trình ưu đãi thuế quan chính là bỏ qua những cơ hội có lợi cho bản thân các doanh nghiệp, bỏ quan sự phát triển và tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.

– Đối với cơ quan chức năng: Có những trường hợp cán bộ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho doanh nghiệp không chính xác và đầy đủ. Vì dụ như trường hợp chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp Khánh Hào (Nha Trang) hướng dẫn doanh nghiệp khai sai mã số làm thủ tục khiến hải quan nước nhập khẩu không chấp nhận, do đó hàng đến nước nhập khẩu mà không được chuyển đến người mua. Việc kiểm tra các chứng từ, khai báo của chủ hàng trước khi cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa còn có những lúc không phát hiện thấy những sai xót, khai thiếu, không đầy đủ…

3.2.2. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch

Liên quan đến vi phạm về áp dụng biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch. Vừa qua, ngày 3/2/2021, Cục Thú y đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không đưa động vật nhập khẩu về nơi cách ly kiểm dịch theo quy định đối với 04 doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng Lợn sống dùng để giết mổ qua cửa khẩu Lao Bảo. Theo đó, chủ của 4 doanh nghiệp này đã có hành vi tự ý tiêu thụ 163 con lợn nhập khẩu trong khi chờ kết quả kiểm dịch để hoàn thành thủ tục hải quan.

Cũng vừa qua, ngày 30.3, Tổng cục Hải quan đã có thông tin đến báo chí cảnh báo tình trạng nhập khẩu cá tầm theo đường chính ngạch, có giấy phép nhập khẩu, nhưng kết quả kiểm tra thì khai cá tầm chủng loại này, nhưng nhập chủng loại khác, không thuộc danh mục được cho phép nhập bởi Tổng cục Thủy sản, không được cấp giấy chứng nhận bởi Cơ quan Quản lý CITES Việt Nam.

3.2.3. Các biện pháp phòng vệ thương mại

Năm 2020, nhiều nước tiếp tục khởi xướng điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều ngành sản xuất bị thiệt hại bởi hàng hóa nhập khẩu đã có hồ sơ đề nghị khởi xướng điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.

Bên cạnh đó, xu thế theo dõi, điều tra, áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ gia tăng.

Theo thông tin mới nhất từ Bộ Công Thương, năm 2020, số lượng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại mới đối với hàng xuất khẩu Việt Nam đạt mức cao nhất với 39 vụ việc, tăng 2,5 lần so với năm 2019. Bộ Công Thương đã nỗ lực xử lý hiệu quả các vụ việc phòng vệ thương mại, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam.

Điển hình như, cảnh báo sớm nguy cơ bị kiện để doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch xử lý; trao đổi kịp thời với hiệp hội, doanh nghiệp để cung cấp thông tin cập nhật giúp doanh nghiệp nắm được diễn biến vụ việc; tư vấn pháp lý, quy trình thủ tục điều tra, quy định/thông lệ điều tra của nước khởi kiện và đưa ra các khuyến nghị, hướng xử lý cụ thể cho doanh nghiệp…

Nhờ đó, cho tới nay, Việt Nam đã kháng nghị thành công 65 vụ việc, giúp nhiều doanh nghiệp, mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được hưởng mức thuế 0% hoặc rất thấp (kể cả đối với một số mặt hàng nông sản, thủy sản), duy trì tăng trưởng xuất khẩu, nhất là sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Canada….

Năm 2020, điểm đáng chú ý là công tác áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đã được Bộ Công Thương chú trọng đẩy mạnh, góp phần bảo vệ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các ngành sản xuất trong nước.

Đến nay, Bộ Công Thương đã điều tra 22 vụ việc phòng vệ thương mại, gồm 14 vụ việc chống bán phá giá, 1 vụ việc chống trợ cấp, 6 vụ việc tự vệ và 1 vụ việc chống lẩn tránh biện pháp tự vệ.

Các biện pháp này bao phủ nhóm lĩnh vực và sản phẩm đa dạng, cụ thể là các sản phẩm thép, kính nổi, dầu ăn, bột ngọt, phân bón, màng BOPP, nhôm thanh định hình, ván gỗ, sợi filament, đường lỏng HFCS, đường mía, sorbitol,…

Trong số đó, Bộ Công Thương đã ban hành quyết định áp dụng 7 biện pháp chống bán phá giá, 5 biện pháp tự vệ và 1 biện pháp chống lẩn tránh biện pháp tự vệ. Riêng trong năm 2020, Việt Nam đã khởi xướng điều tra hoặc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với 8 vụ việc.

Hiện nay, Bộ Công Thương đang điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với sản phẩm đường lỏng HFCS và điều tra áp dụng biện pháp CBPG và chống trợ cấp với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Thái Lan.

3.2.4. Biện pháp kiểm soát khẩn cấp

Liên quan đến vấn đề này, trong giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại Việt Nam, Chính phủ đã ra Nghị quyết 20/NQ-CP quyết định áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp, cầm xuất khẩu mặt hàng khẩu trang y tế ra nước ngoài, trừ trường hợp xuất khẩu với mục đích viện trợ, hỗ trợ quốc tế, nhằm mục đích đảm bảo số lượng khẩu trang cần thiết sử dụng trong nước. Sau đó, khi tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát, Chính phủ tiếp tục ra Nghị quyết 60/NQ-CP để bãi bỏ quy định cấm xuất khẩu khẩu trang trước đó.

3.2.5. Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương

Các hoạt động thuộc Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại đã hỗ trợ trên 30.000 lượt doanh nghiệp tham gia, các doanh nghiệp đã trực tiếp giao dịch và ký kết các hợp đồng trong thời gian tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại với tổng giá trị hợp đồng và giao dịch trực tiếp tại các sự kiện xúc tiến thương mại phát triển ngoại thương đạt trên 14,8 tỷ USD.

Trong bối cảnh dịch bệnh, để kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục khó khăn về gián đoạn thị trường, hoạt động xúc tiến thương mại đã thực hiện thí điểm hoạt động trên các ứng dụng trực tuyến giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác có nhu cầu nhập khẩu hay giữa các doanh nghiệp với các tổ chức hỗ trợ kinh doanh.

Nổi bật là Cục Xúc tiến thương mại đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan xúc tiến thương mại nước ngoài tổ chức 20 hoạt động xúc tiến thương mại trực tuyến kết nối các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Singapore, Hà Lan, Bulgaria…

Nhờ có các biện pháp xúc tiến thương mại của Chính phủ, ước tính năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt khoảng 267 tỷ USD, tăng khoảng 1% và nhập khẩu khoảng 260 tỷ USD, tăng khoảng 2,6% so với năm trước đó.

3.3. Đánh giá chung về hoạt động quản lý xuất, nhập khẩu tại Việt Nam

3.3.1. Một số điểm tích cực và hạn chế

a. Tích cực

– Chính sách, cơ chế điều hành xuất nhập khẩu từng bước được hoàn thiện, ổn định lâu dài và có thể nhận biết trước.

– Hệ thống pháp luật về thương mại và quản lý xuất nhập khẩu cơ bản được ban hành thực sự là công cụ thiết yếu điều chỉnh các hoạt động thương mại đi đúng hướng và thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển.

– Đẩy mạnh tiến trình hội nhập, tham gia sâu vào các tổ chức quốc tế và khu vực.

– Các đối tượng xuất nhập khẩu từng bước được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa, đảm bảo hiệu quả và tuân thủ thông lệ quốc tế.

–      Công tác phát triển thị trường đạt nhiều kết quả:

+     Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do ( FTA ) , trong đó có 13 FTA đã ký kết và đi vào hiệu lực . Các FTA mở rộng cửa cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập các thị trường đối tác quan trọng , là cơ hội kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu

+     Công tác khai thác cơ hội từ cam kết hội nhập đã được thực hiện có hiệu quả . Xuất khẩu sang các thị trường có FTA tăng cao trong nhiều năm , Các thị trường mỏi trong các nước đối tác thuộc Hiệp định CPTPP đạt mức tăng trưởng xuất khẩu cao , thể hiện bước đầu tận dụng hiệu quả cam kết CPTPP Xuất khẩu sang Canada năm 2017 đạt 3.9 tỷ USD hàng 29 % so với năm 2018 , sang Mexico đạt 2 83 tỷ USD , tăng 26 2 % . Tình hết 9 tháng đầu năm 2020 trong bối cảnh dịch Covid – 19 xuất khẩu sang Canada vẫn tăng 10 2 % so với cùng kỳ ( đạt 3,1 tỷ USD , và arg Max tầng 79 % ( đạt 2,34 tỷ USD ) .

b. Hạn chế

 – Những quy định về tờ khai, sửa tờ khai, in tờ khai còn thiếu sót và chưa phù hợp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình khai báo.

– Nhân viên hải quan phải cùng một lúc xử lý nhiều hệ thống, thời gian xử lý chậm, khó kiểm soát và điều hành

– Tổ chức bộ máy ngành hải quan cồng kềnh, phân tán, chậm đổi mới để bắt kịp yêu cầu quản lý tập trung hải quan điện tử, không giới hạn không gian địa lý.

– Đội ngũ nhân lực còn hạn chế đặc biệt là thiếu hẳn đội ngũ chuyên gia trong nhiều lĩnh vực nghiệp vụ hải quan hiện đại (giá, mã, kiểm soát, tình báo, phân tích phân loại, quản lý rủi ro, công nghệ thông tin).

– Những thay đổi trong chính sách mặt hàng, giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa, áp dụng các tiêu chí quản lý rủi ro, lỗi chương trình,… gây khó khăn cho việc thực hiện quản lý

-Thiếu sót trong các phần mềm chương trình, sự không đồng bộ giữa các hệ thống gây khó khăn trong công tác quản lý, theo dõi việc nộp thuế, lệ phí, quản lý giá tính thuế,…

-Những bất cập do việc áp dụng không đồng bộ hệ thống tiêu chí quản lý rủi ro thủ công và điện tử làm ảnh hưởng đến kết quả xử lý hồ sơ.

3.3.2. Nguyên nhân và một số giải pháp khắc phục

a. Nguyên nhân

  • Xu hướng toàn cầu hóa và tự do thương mại diễn ra ngày càng mạnh mẽ tạo sức ép và khó khăn rất lớn trong quá trình cam kết mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế.
  • Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp, năng suất lao động còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật trọng yếu và công nghiệp hóa vẫn còn nghèo nàn, khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, ngân sách nhà nước vẫn bị thiếu hụt, giá cả hàng hóa có xu hướng tăng, nhập siêu không giảm
  • Tỷ trọng và chất lượng đầu tư phát triển, trong đó đầu tư xã hội cho sản xuất hàng xuất khẩu nhìn chung vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng gia tăng quy mô sản xuất và xuất khẩu.
  • Tình trạng thiếu hụt cán cân thương mại.

b. Giải pháp

  • Hoàn thiện chiến lược quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu. Phải thực hiện điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu trên cơ sở tổng thể của cả nền kinh tế, định hướng phát triển công nghiệp, nông nghiệp và phải tính đến hiệu ứng lan tỏa từ chính sách xuất nhập khẩu đối với các lĩnh vực khác như an ninh, an toàn, giá cả, sức khỏe con người, đồng thời phải gắn liền hiệu quả với từng ngành hàng sản xuất; Phải kết hợp sử dụng các phương pháp định lượng và định tính để hoạch định các chính sách và công cụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động xuất nhập khẩu; Tiếp tục hoàn thiện quyền tự do thương mại gắn liền với quyền tự do xuất nhập khẩu và ban hành cơ chế đồng bộ để đảm bảo cho quyền này được phát huy có hiệu quả; Đi đôi với mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, phân cấp mạnh mẽ quyền hạn cho cơ sở để chủ động sản xuất kinh doanh cần phải tăng cường vai trò quản lý hoạt động xuất nhập khẩu ở các địa phương và khu vực…
  • Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về . Hoàn thiện chính sách thuế quan, hoàn thiện biểu thuế xuất nhập khẩu, sử dụng hạn ngạch thuế quan để bảo về sản xuất trong nước, hoàn thiện hệ thống các công cụ phi thuế quan, hoàn thiện các biện pháp quản lý định lượng, quản lý ngoại hối và tỷ giá linh hoạt và hợp lý…
  • Tổ chức lại hoạt động xuất nhập khẩu. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu phải đạt các mục tiêu: Đổi mới toàn bộ hệ thống pháp luật xuất nhập khẩu từ quy trình lập pháp, phương pháp soạn thảo, thẩm định cho đến ban hành đưa luật vào thực tiễn cuộc sống; tôn trọng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, hàng hóa, tiền tệ và đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu; đảm bảo sự quản lý vĩ mô và chỉ huy điều hành thống nhất của các hoạt động xuất nhập khẩu; hệ thống pháp lý từ luật cho đến các qua trình thủ tục, giữa phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh phải thống nhất và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; đảm bảo sự tương thích với hệ thống pháp luật và thông lệ quốc tế trên cơ sở cân nhắc giải quyết tốt mối quan hệ giữa yêu cầu quản lý nhà nước và thông thoáng tạo thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu…
  • Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
  • Hoàn thiện công tác tranh tra kiểm tra quản lý nhà về hoạt động xuất nhập khẩu. Nâng cao hiệu lực công tác thanh tra kiểm tra, đổi mới biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại.

Quả thực, vai trò của việc quản lý Nhà nước đối với vấn đề xuất nhập khẩu là rất quan trọng. Nhà nước ta đã ra sức nghiên cứu về hoạt động ngoại thương này nhằm phát triển cầu nối, giao lưu với các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế nên Nhà nước mới vạch định những kế hoạch liên quan đến vấn đề này cũng như đưa ra những quy định pháp luật cụ thể. Quản lý Nhà nước đã từng bước phát triển hoạt động ngoại thương của quốc gia, cụ thể là xuất, nhập khẩu; đưa Việt Nam ngày càng có vị thế trên sàn giao dịch thương mại quốc tế. Đồng thời duy trì sự giao lưu buôn bán giữa các quốc gia để cùng nhau học hỏi kinh nghiệm và cùng nhau phát triển. Nhờ có sự quản lý của Nhà nước mà đến hiện nay Việt Nam ta đã đạt được một số kết quả nhất định trong vấn đề xuất, nhập khẩu này.


[1] Điều 100 Luật Quản lý ngoại thương 2017

[2] Điều 35 Luật xuất khẩu ngoại thương 2017

[3] Điều 101 Luật Quản lý ngoại thương 2017

Bài viết cùng chuyên mục:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com