Chế định sở hữu toàn dân [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Chế định sở hữu toàn dân [Chi tiết 2023]

Chế định sở hữu toàn dân [Chi tiết 2023]

Các chế độ sở hữu phong phú hơn với sở hữu cá nhân được tôn trọng. Nền kinh tế nhiều thành phần được khẳng định mặc dù kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Vậy trong thời kỳ kinh tế hội nhập và phát triển thì sở hữu toàn dân là gì? Các tài sản nào thuộc chế độ sở hữu toàn dân?

Chế định sở hữu toàn dân [Chi tiết 2023]

1. Chế độ sở hữu toàn dân là gì?

Chế độ sở hữu toàn dân là Chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định chủ thể, khách thể, nội dung, phương thức thực hiện quyền sở hữu của toàn dân. Sở hữu toàn dân là cách thức cao nhất của sở hữu xã hội chủ nghĩa, trong đó các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và tài sản khác thuộc về nhà nước – người uỷ quyền chính thức của nhân dân.

Bên cạnh đó, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm pháp lý gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ sở hữu đất đai trong đó xác nhận, quy định và bảo vệ quyền uỷ quyền chủ sở hữu của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.

Theo Hiến pháp năm 1980 thì Nhà nước chỉ thừa nhận sự tồn tại hình thành sở hữu duy nhất: sở hữu toàn dân về đất đai. Nhưng với những quy định của Luật đất đai năm 1993 thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất thuộc về người sử dụng đất, khắc phục những khuyết điểm của Luật đất đai 1993 và Luật đất đai 2013 đã sửa đổi bổ sung quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước uỷ quyền chủ sở hữu.

2. Nội dung sở hữu toàn dân là gì ?

Nhà nước là chủ thể uỷ quyền thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản là những tư liệu sản xuất cần thiết nhất của nước ta, nên Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có những quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.

2.1 Quyền chiếm hữu

Các tổ chức, công dân thực hiện quyền chiếm hữu bằng cách chiếm giữ trực tiếp hoặc chiếm giữ pháp lí, còn Nhà nước lại uỷ quyền thực hiện quyền chiếm hữu tài sản toàn dân bằng cách ban hành các văn bản pháp quy, quy định việc bảo quản, quy định thể lệ kiểm kê tài sản định kì và đột xuất để kiểm tra tài sản mà Nhà nước đã giao cho các đơn vị, doanh nghiệp của Nhà nước. Các đơn vị, doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định này.

Hàng năm hoặc hàng quý, Nhà nước tiến hành kiểm tra tài sản, vật tư, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vốn và việc sử dụng vốn… mà Nhà nước đã giao quyền quản lí, sử dụng. Các doanh nghiệp có nghĩa vụ sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn do Nhà nước giao… sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác, Nhà nước trao cho các đơn vị chức năng của Nhà nước theo hệ thống dọc (bộ, ngành) hoặc đơn vị quản lí hành chính theo địa hạt trực tiếp ban hành các văn bản như Chỉ thị, Thông tư, Quy định về việc sử dụng các loại tài sản giao cho các đơn vị, đơn vị trực thuộc.

Nhà nước uỷ quyền thực hiện quyền chiếm hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân bằng cách ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền hạn, nghĩa vụ của các đơn vị nhà nước, các doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản được Nhà nước giao cho.

2.2 Quyền sử dụng

Với tư cách là người uỷ quyền của chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất cần thiết, Nhà nước có quyền khai thác công dụng những tài sản đó như bất kì một chủ thể nào đối với tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân. Tuy nhiên, việc khai thác những lợi ích từ tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân cũng khác với quyền sử dụng của các chủ thể khác. Nhà nước khai thác lợi ích từ tài sản theo hướng dẫn của pháp luật và theo một kế hoạch nhất định. Nhà nước thành lập những đơn vị quản lí tài sản như quản lí hành chính kinh tế hoặc quản lí sản xuất, kinh doanh. Tuỳ từng tính chất của loại doanh nghiệp và tuỳ loại tài nguyên thiên nhiên mà Nhà nước giao cho các đơn vị khác nhau quản lí như: Đất đai được giao cho Bộ tài nguyên và môi trường quản lí. Rừng, chim, thú rừng giao cho Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hoặc Nhà nước thành lập các doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn và tổ chức quản lí, giao cho doanh nghiệp này một số tư liệu sản xuất để hoạt động kinh doanh, hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định được Nhà nước giao.

Đe khai thác công dụng của các tư liệu sản xuất cần thiết, Nhà nước giao quyền sử dụng cho các tổ chức, cá nhân trong một thời gian lâu dài và ổn định. Đối với đất đai, Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp trên đất được giao như: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, được bán những thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao khi còn sử dụng. Khi chuyển quyền sử dụng đất phải tuân theo các trình tự thủ tục do BLDS và luật đất đai quy định. Tuy nhiên, đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân, vì vậy, những tổ chức, cá nhân sử dụng đất có trách nhiệm thực hiện các chính sách của Nhà nước nhằm bảo vệ và cải tạo, bồi bổ và sử dụng đất đai hợp lí, đúng mục đích, tiết kiệm, không được làm đất suy kiệt độ phì nhiêu, bạc màu.

Đổi với các loại tài nguyên khác Nhà nước giao cho các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước để thực hiện nhiệm vụ nhất định hoặc có thể cho các chủ thể khác nhận khoán, thuê, thuê khoán… nhằm khai thác công dụng của các tài nguyên. Các quyền lợi hợp pháp của các chủ thể cũng được pháp luật bảo vệ.

Tóm lại, quyền sử dụng tài sản được Nhà nước chuyển giao cho các đơn vị, doanh nghiệp của Nhà nước để quản lí và khai thác công dụng; hoặc được Nhà nước chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thông qua các hợp đồng dân sự hay thủ tục hành chính nhất định. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, cá nhân và các chủ thể khác sử dụng tài sản thuộc sở hữu nhà nước một cách tiết kiệm, đúng mục đích và đem lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời nghiêm trị những hành vi gây tổn hại đối với tài sản đó hoặc làm suy kiệt, hủy hoại môi trường.

2.3 Quyền định đoạt

Cũng như các chủ thể khác, đây là quyền định đoạt tài sản về mặt pháp lí và là quyền năng cơ bản của sở hữu. Nhà nước uỷ quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân bằng nhiều phương thức khác nhau. Nhà nước có thể chuyển giao tài sản cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân… những chủ thể này được quyền sử dụng tài sản để thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhà nước thành lập những đơn vị quản lí nhà nước ở trung ương và địa phương để trực tiếp quyết định việc chuyển giao tài sản trong phạm vi chức năng, quyền hạn do pháp luật quy định.

Để thực hiện quyền định đoạt, Nhà nước trao cho các đơn vị quản lí nhà nước ở địa phương quyền được định đoạt một phần trong phạm vi quyền sở hữu đất đai. Những đơn vị nhà nước có thẩm quyền giao đất cũng đồng thời có thẩm quyền thu hồi đất nếu người sử dụng đất không thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước về mục đích sử dụng của từng loại đất, bảo vệ đất…

Ngoài việc các đơn vị quản lí nhà nước ở trung ương và địa phương thực hiện quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân, các đơn vị nhà nước còn trực tiếp quyết định việc chuyển giao tài sản cho tổ chức, cá nhân trong phạm vi quyền hạn của mình, Nhà nước còn cho phép các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập thực hiện một phần quyền định đoạt đó. Chẳng hạn, các doanh nghiệp có quyền mua, bán phương tiện, nguyên liệu, máy móc, vật tư, hàng hoá… để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, phục vụ hoạt động công ích và để thực hiện các nhiệm vụ mà Nhà nước đã giao. Ngoài các quyền trên, các tổ chức này (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích) còn có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lí của doanh nghiệp, trừ những thiết bị nhà xưởng cần thiết theo hướng dẫn của Chính phủ phải được đơn vị quản lí nhà nước có thẩm quyền cho phép trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn; đối với đất đai, tài nguyên thuộc quyền quản lí của doanh nghiệp thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật.

Vì vậy, Nhà nước uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu trực tiếp thông qua các đơn vị quyền lực, đơn vị quản lí nhà nước hoặc gián tiếp thông qua các doanh nghiệp kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích do Nhà nước thành lập và được Nhà nước giao cho quyền quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản.

Là chủ thể đặc biệt trong các quan hệ pháp luật dân sự nên các căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu toàn dân cũng có những đặc thù. Quyền sở hữu toàn dân có thể phát sinh thông qua các hợp đồng dân sự hoặc những căn cứ phổ biến khác nhưng có những căn cứ pháp luật chỉ áp dụng đối với cách thức sở hữu toàn dân như: Trưng mua tài sản (Điều 243 BLDS); tịch thu tài sản (Điều 244 Bộ luật dân sự năm 2015); hoặc trong một số trường hợp tài sản vô chủ, tài sản bị chôn giấu, bị vùi lấp, bị chìm đắm, tài sản do người khác đánh rơi bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu, hàng hoá viện trợ của nước ngoài v.v. thì tài sản đó đều thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước uỷ quyền.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com