Quy định về phục hồi tin báo tạm đình chỉ [Mới nhất 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy định về phục hồi tin báo tạm đình chỉ [Mới nhất 2023]

Quy định về phục hồi tin báo tạm đình chỉ [Mới nhất 2023]

Quy định về phục hồi tin báo tạm đình chỉ [Mới nhất 2023]

1. Có được phục hồi giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố

Căn cứ theo khoản 1 điều 149 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau :

Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
  2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Vì vậy, trường hợp cả em bạn khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác không còn thì đơn vị điều tra và các đơn vị được giao nhiệm vụ sẽ ra quyết định phục hồi giải quyết.

2. Thời hạn giải quyết sau khi có quyết định phục hồi

Cơ sở pháp lý khoản 1 điều 149 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định

Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
  2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Vì vậy, thời hạn giải quyết tiếp phải không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi

Cơ sở pháp lý :

Căn cứ theo khoản 2 điều 148 và khoản 2 điều 149 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :

Điều 148. Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, đơn vị có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng không có kết quả;
b) Đã yêu cầu đơn vị, tổ chức, cá nhân gửi tới tài liệu, đồ vật cần thiết có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng không có kết quả.

2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát và gửi quyết định tạm đình chỉ đó cho đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trường hợp quyết định tạm đình chỉ không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ để tiếp tục giải quyết. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó cho Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ.

  1. Trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì việc giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
  2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
  3. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Cùng với quy định mới về tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Với quy định này, thẩm quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chỉ thuộc về đơn vị điều tra và đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật TTHS năm 2015, Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Do đó, khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Nói cách khác, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đều có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Theo đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, đơn vị điều tra, Viện kiểm sát, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi…”.

Đồng thời, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi một số điều luật có liên quan theo hướng bổ sung quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho các chủ thể tương ứng để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, cụ thể:

Thứ nhất, sửa đổi điểm a, khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

  1. Khi tiến hành tố tụng hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn:
  2. a) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập hoặc tách vụ án; quyết định ủy thác điều tra;…”.

Thứ hai, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 39 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: …

  1. b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can”.

Thứ ba, sửa đổi điểm b, khoản 3 Điều 39 như sau:

  1. Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, những người được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: …
  2. b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án”.

Thứ tư, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 40 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

3. Quy định việc phục hồi giải quyết tổ giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố 

Trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì việc giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả..

Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
  2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Vì vậy, trường hợp cả em bạn khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác không còn thì đơn vị điều tra và các đơn vị được giao nhiệm vụ sẽ ra quyết định phục hồi giải quyết.

4. Thời hạn giải quyết sau khi có quyết định phục hồi

Cơ sở pháp lý khoản 1 điều 149 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định

Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
  2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Cơ sở pháp lý :

Căn cứ theo khoản 2 điều 148 và khaonr 2 điều 149 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :

Điều 148. Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, đơn vị có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng không có kết quả;
b) Đã yêu cầu đơn vị, tổ chức, cá nhân gửi tới tài liệu, đồ vật cần thiết có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng không có kết quả.
      2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát và gửi quyết định tạm đình chỉ đó cho đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.Trường hợp quyết định tạm đình chỉ không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ để tiếp tục giải quyết. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó cho Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ.

  1. Trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì việc giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

  1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
  2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
  3. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Cùng với quy định mới về tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Với quy định này, thẩm quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chỉ thuộc về đơn vị điều tra và đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật TTHS năm 2015, Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Do đó, khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Nói cách khác, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đều có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Theo đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, đơn vị điều tra, Viện kiểm sát, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi…”.

Đồng thời, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi một số điều luật có liên quan theo hướng bổ sung quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho các chủ thể tương ứng để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, cụ thể:

Thứ nhất, sửa đổi điểm a, khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn:

a) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập hoặc tách vụ án; quyết định ủy thác điều tra;…”.
Thứ hai, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 39 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: …

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can”.
Thứ ba, sửa đổi điểm b, khoản 3 Điều 39 như sau:

“3. Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, những người được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: …

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án”.
Thứ tư, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 40 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự, những người được quy định tại điểm e và điểm g khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: …

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án”.
Thứ năm, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 41 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn:

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập, tách vụ án”

5.Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là bước khởi đầu và là công tác đặc biệt cần thiết trong tố tụng hình sự cũng như trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo quy định của tư pháp hình sự và yêu cầu cải cách tư pháp, những năm qua Viện kiểm sát các cấp đã thực hiện nghiêm quy định của pháp luật, đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án hình sự

Ngày 24/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2015, đã quy định mở rộng phạm vi THQCT là ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khi VKSND ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ.

Tiếp đó, ngày 24/11/2014, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII cũng đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi giải quyết, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (tại các Điều 145, 159, 160). Trong đó quy định chi tiết về các khái niệm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố… Có thể nói, đây là căn cứ pháp lí vững chắc cho hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói chung, hoạt động THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nói riêng; đặc biệt là mở rộng, tăng thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát.

Mặt khác, ngày 22/12/2017, Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Bộ Tài chính – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa các đơn vị có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Thông tư này đã tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc cho VKSND cũng như các đơn vị có thẩm quyền trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com