Bảo đảm quyền nuôi con chung của phụ nữ khi ly hôn? Bảo đảm quyền chia tài sản của phụ nữ khi ly hôn? Bảo đảm quyền nuôi con và chia tài sản của phụ nữ khi ly hôn?
Những tưởng ly hôn là xong, Vợ chồng được “giải thoát” khỏi nhau. Thế nhưng, cuộc chiến giành quyền nuôi con lại tiếp tục kéo họ vào những tranh cãi, tranh giành... Khi ly hôn, không chỉ có mối quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng chấm dứt mà mối quan hệ giữa cha, mẹ và con cũng có sự thay đổi.
1. Bảo đảm quyền nuôi con chung của phụ nữ khi ly hôn:
Bảo vệ quyền của phụ nữ trong tố tụng HNGĐ còn thể hiện thông qua việc xem xét quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn. Theo quy định của pháp luật, sau khi ly hôn thì người cha hoặc người mẹ đều có quyền quan tâm, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ trong việc thực hiện mối quan hệ với con chung được pháp luật ghi nhận khá đầy đủ và thể hiện ở những khía cạnh cụ thể: Bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ trong trường hợp người mẹ là người trực tiếp nuôi con.
Khi ly hôn xảy ra, vấn đề ai là người trực tiếp nuôi dưỡng con luôn là câu hỏi đặt ra cần phải được giải quyết. Pháp luật cũng có quy định đảm bảo cho quyền làm mẹ của người vợ trong những trường hợp này. Theo quy định tại Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014, sau khi ly hôn thì người vợ bình đẳng với người chồng trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con. Cụ thể: người vợ có quyền trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chưa thành niên, con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Như vậy, quyền được làm mẹ đối với các con của người vợ đã được pháp luật ghi nhận đảm bảo. Pháp luật đảm bảo và tôn trọng thỏa thuận của vợ chồng về việc người vợ hay người chồng là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Việc thỏa thuận này dựa trên ý chí, nguyện vọng chung của hai vợ chồng và có tính toán đến việc làm thế nào để tạo điều kiện tốt nhất cho người con. Trong trường hợp hai vợ chồng không thỏa thuận được, có tranh chấp về việc nuôi con thì Tòa án sẽ là người phân xử sẽ giao con cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con. Theo quy định Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi có căn cứ dựa trên quyền lợi về mọi mặt của con.
Trong thực tế, thông thường để chăm sóc các con thì người mẹ sẽ được ưu tiên hơn bởi sự cân nhắc ở nhiều góc độ từ việc đảm bảo kinh tế để nuôi dưỡng cho các con đến thời gian chăm sóc, yêu thương, sự chăm chút cho các con khi các con còn nhỏ. Tòa án sẽ xem xét các điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con xét trên góc độ đảm bảo tốt nhất quyền lợi của con. Tuy nhiên, việc phân định ai là người trực tiếp nuôi con còn được xem xét đến nguyện vọng của người con từ 07 tuổi trở lên là phù hợp với tâm lý của trẻ, tôn trọng nguyện vọng của trẻ, không áp đặt trẻ, tạo điều kiện tốt hơn cho đời sống của con. Bảo vệ quyền làm mẹ còn thể hiện trong việc pháp luật quy định người mẹ được ưu tiên quyền nuôi con khi con dưới 36 tháng tuổi.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Pháp luật quy định như vậy không chỉ bảo vệ quyền làm mẹ cho người vợ mà còn có sự hợp lý nhất định. Khi đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi, trên bình diện thông thường thì người mẹ là người có điều kiện chăm sóc nhất, gần gũi nhất với đứa trẻ và trong nhiều trường hợp người cha hay người thân thích khác không thể thay thế được vai trò của người mẹ đối với đứa trẻ trong giai đoạn này.
Do vậy, để bảo vệ quyền làm mẹ cho người vợ và đảm bảo quyền lợi cho đứa trẻ thì pháp luật quy định ưu tiên cho người vợ được trực tiếp nuôi con khi con dưới 36 tháng tuổi. Như vậy, với những quy định như trên quyền làm mẹ của người vợ đã được đảm bảo tốt hơn nhìn dưới góc độ: người mẹ đã được bình đẳng với người chồng trong việc được quyền nuôi con; việc con ở với ai Tòa án phân định dựa trên quyền lợi mọi mặt của đứa trẻ chứ không phải chỉ dựa vào ai là người có điều kiện vật chất nuôi nấng đứa trẻ hơn; việc được nuôi con còn căn cứ trên nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên; ưu tiên cho người mẹ được quyền chăm sóc con khi con dưới 36 tháng tuổi.
Trong trường hợp người vợ là người trực tiếp nuôi con thì pháp luật cũng cho phép người vợ được quyền yêu cầu người chồng tôn trọng quyền con được sống chung với người vợ, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Điều này là rất cần thiết và quan trọng đối với người vợ, đặc biệt là người vợ trong thời kỳ đầu nuôi con. Thực tế, nhiều trường hợp sau khi Tòa án xử lý ly hôn thì người chồng không hề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Điều này dễ dẫn đến những gánh nặng tài chính đối với người vợ khi họ phải tự mình chăm sóc con, do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người vợ và người con thì người mẹ được quyền yêu cầu người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho người vợ trực tiếp nuôi con, pháp luật HN&GĐ hiện hành đã bổ sung thêm quy định tại Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo đó, cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa vụ đảm bảo quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của mình . Nếu người chồng lạm dụng việc thăm nom để cản trở, gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người vợ thì người vợ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người chồng.
2. Bảo đảm quyền chia tài sản của phụ nữ khi ly hôn:
Quyền tài sản của vợ chồng hay còn gọi là chế độ tài sản của vợ chồng là một phạm trù thuộc quyền sở hữu tài sản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Để đảm bảo thực sự quyền tự định đoạt của công dân, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng. Điều đó phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội.
Chế độ tài sản giữa vợ và chồng mà Luật HN&GĐ năm 2014 quy định đã tạo ra môi trường pháp lý đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng khi tham gia các giao dịch ngoài xã hội cũng như xác định rõ trách nhiệm, khả năng thanh toán của vợ chồng và đảm bảo quyền và lợi ích của những người khác khi tham gia giao dịch. Mặt khác, đó còn là căn cứ pháp lý để các cấp Tòa án giải quyết thấu đáo, công bằng những vụ tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Đây chính là căn cứ để bảo đảm quyền lợi của người phụ nữ khi chia tài sản trong ly hôn.
Để đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ, Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Vấn đề tài sản là một trong những vấn đề quan trọng trong đời sống HN&GĐ cũng như sau khi vợ chồng ly hôn. Trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng là điều cần thiết, bảo đảm điều kiện sống cho mỗi bên sau khi ly hôn. Song đây cũng là hậu quả pháp lý nặng nề nhất, chứng kiến sự tan rã toàn bộ các cơ sở tinh thần, vật chất của gia đình với tư cách là tế bào của xã hội. Do vậy, pháp luật cũng cần phải đặt ra những quy định để đảm bảo quyền lợi về tài sản của người vợ khi vợ chồng ly hôn.
Thứ nhất, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ theo nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn. Khi ly hôn xảy ra vấn đề chia tài sản cho vợ chồng như thế nào để đảm bảo quyền lợi của các bên là vấn đề rất quan trọng. Luật HN&GĐ năm 2014 đã đưa ra nguyên tắc chung để chia tài sản chung vợ chồng sau khi ly hôn. Nguyên tắc chung này cũng đã góp phần đảm bảo quyền lợi của người vợ sau khi ly hôn. Theo nguyên tắc chung, tài sản vợ chồng được chia đôi cho hai người. Quan điểm đưa ra rằng, tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất nên không phân biệt được ai có nhiều phần hơn ai trong số tài sản chung đó. Do vậy, vợ chồng về nguyên tắc được sở hữu ngang nhau với tài sản chung của vợ chồng và khi chia thì chia đều cho cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền sở hữu tài sản của người vợ thì khi chia pháp luật còn yêu cầu xem xét đến các yếu tố khác nữa.
Khi chia tài sản chung thì cần phải xem xét đến hoàn cảnh của gia đình bên vợ và bên chồng. Việc xem xét yếu tố này để đảm bảo công bằng hơn cho người vợ. Có thể chia tài sản chung mà căn cứ vào yếu tố hoàn cảnh của các bên thì tỷ lệ nhận được tài sản của hai bên có thể có chênh lệch đôi chút và không giữ nguyên tỷ lệ là 50/50 mà là một tỷ lệ khác để đảm bảo công bằng hơn. Hoặc giả sử tài sản chung vợ chồng chỉ có một căn nhà nhỏ. Về nguyên tắc vợ chồng mỗi người một nửa giá trị tài sản của ngôi nhà. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh người vợ khó khăn và số tiền nhận được không thể đủ tạo lập nơi ở mới thì Tòa án có thể tuyên việc ngăn đôi căn nhà để người vợ được quyền sở hữu một nửa căn nhà, đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ. Bên cạnh đó, pháp luật đảm bảo cho người vợ được sở hữu tài sản riêng của mình. Khoản 4 Điều 59 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Theo đó, người vợ sẽ được chuyển quyền sở hữu đối với toàn bộ tài sản riêng của mình, trừ tài sản riêng mà người vợ đã thỏa thuận nhập vào tài sản chung của hai vợ chồng. Khi tài sản của người vợ sáp nhập hoặc trộn lẫn vào tài sản chung của hai vợ chồng thì người vợ được thanh toán phần giá trị mà mình đóng góp vào khối tài sản chung đó. Với quy định như trên, quyền sử hữu của người vợ được bảo đảm một cách cụ thể.
Khi chia tài sản phải tính đến công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Quy định này rất quan trọng bởi khi xét đến phần công sức đóng góp để tạo lập nên khối tài sản chung cũng chính là việc xem xét một cách công bằng cho cả hai bên vợ chồng khi được hưởng phần tài sản chung đó. Về mặt nguyên tắc là phải tìm được cơ sở để chứng minh cho việc đóng góp công sức vào khối tài sản này. Như vậy, quy định này cũng góp phần đảm bảo cho quyền sở hữu tài sản của người vợ khi phân chia tài sản khi ly hôn.
Ví dụ: Trong nhiều trường hợp vợ chồng có tài sản chung do bố mẹ chồng để lại. Người chồng thì mắc vào nhiều tệ nạn xã hội như lô, đề, cờ bạc ... có thể dẫn đến phá tán tài sản. Những người vợ chỉ lo làm ăn, chăm lo cho gia đình, cũng góp sức xây dựng được tài sản chung nhiều hơn chồng. Vậy nên khi phân chia tài sản phải tính toán đến công sức của người vợ để đảm bảo quyền lợi về tài sản cho người vợ.
Thêm nữa, Luật HN&GĐ năm 2014 đã coi công sức của người vợ lao động trong gia đình là lao động có thu nhập cũng góp phần đảm bảo tốt hơn cho người vợ được sở hữu phần tài sản của họ và pháp luật cũng thể hiện tính công bằng hơn trong những trường hợp này. Thực tế, tỷ lệ phần trăm người vợ thực hiện công việc lao động trong gia đình trước đây là rất lớn nhưng khi phân chia tài sản thì công sức của họ lại không được thừa nhận. Điều này dẫn đến sự không công bằng cho người vợ. Với quy định của pháp luật hiện hành thì quyền sở hữu tài sản của người vợ đã được đảm bảo một cách cụ thể và kỹ càng hơn.
Điều này cũng góp phần bảo vệ quyền sở hữu tài sản cho người vợ. Ở nước ta, người vợ thường phải đảm nhiệm nhiều công việc kể cả công việc ngoài xã hội và cả công việc trong gia đình. Đặc biệt hơn nhiều gia đình người vợ chấp nhận xin nghỉ việc để chăm lo, săn sóc công việc gia đình để người chồng tham gia công việc ngoài xã hội. Điều này dẫn đến người chồng có thời gian cống hiến và thành quả đạt được là tạo dựng được khối tài sản chung cho gia đình. Nếu ly hôn mà không xem xét đến yếu tố cống hiến của người vợ trong trường hợp này sẽ là một thiệt thòi cho người vợ.
Quy định nêu trên cũng đã góp phần đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người vợ. Tuy pháp luật coi việc lao động trong gia đình là lao động có thu nhập nhưng hiện tại thì chưa có văn bản nào hướng dẫn hoặc làm rõ nội dung này. Và việc lượng hóa việc lao động trong gia đình được quy định như thế nào cũng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Nếu quy định cụ thể hơn sẽ góp phần tốt hơn trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản của phụ nữ khi ly hôn.
Khi phân chia tài sản còn xem xét dưới khía cạnh bảo vệ chính đáng quyền lợi của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động, tạo thu nhập. Đây là quy định rất hợp lý góp phần bảo vệ tốt hơn quyền sở hữu tài sản của người vợ khi ly hôn trong những trường hợp nhất định. Ví dụ: Người vợ tham gia hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động kinh doanh tốt, doanh nghiệp của vợ xây dựng trên diện tích đất chung của vợ chồng. Khi hai người ly hôn tài sản chủ yếu là bất động sản là mảnh đất hiện đang có nhà xưởng do doanh nghiệp của người vợ đang sản xuất.
Nếu theo nguyên tắc phân chia tài sản cho hai vợ chồng mỗi người được hưởng một nửa diện tích đất nhà xưởng thì sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của người vợ. Nếu phân chia như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp, làm sụt giảm nguồn khách hàng của doanh nghiệp … như vậy sẽ không đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người vợ. Do vậy, quy định như pháp luật nêu trên là rất hợp lý.
Ngoài các yếu tố trên khi phân chia tài sản ly hôn thì pháp luật còn xem xét về lỗi của các bên trong việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Xem xét phần lỗi này thể hiện việc công bằng hơn trong việc đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ khi ly hôn. Tuy nhiên, việc xem xét lỗi này chỉ có tính chất định tính và rất khó định lượng được bởi vì quan hệ hôn nhân là quan hệ nhân thân gắn liền với mỗi người vợ, chồng. Việc vi phạm ít hay nhiều, tìm ra được vi phạm nhiều hay ít tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tình tiết vụ việc, trình độ nhận thức của người xét xử, sự thành ý hay không thành ý của người vợ, người chồng trong giải quyết việc ly hôn.
Do vậy, để cụ thể hơn pháp luật cần quy định cụ thể hơn trong vấn đề này để khi xét xử thi có đầy đủ căn cứ hơn. Đặt quy định này trong bối cảnh của nạn bạo lực gia đình nước ta hiện nay thì thấy rằng đây cũng là quy định góp phần bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ khi ly hôn. Thực tế, sau một thời gian chung sống vợ chồng cùng nhau tạo lập được khối tài sản chung khá lớn nhưng nhiều trường hợp nạn bạo lực gia đình xảy ra, người vợ thường xuyên bị đánh đập, hành hạ. Do không thể chung sống được với nhau nữa thì phải tiến hành việc ly hôn. Khi phân chia tài sản chung có tính yếu tố lỗi của mỗi bên trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng thì cũng góp phần đảm bảo tốt hơn cho quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp nêu trên. Quy định như trên cũng rất khó khăn trong vấn đề lượng hóa phần lỗi để phân định tài sản chung.
Thiết nghĩ pháp luật quy định như trên về cơ bản để đảm bảo quyền lợi cho một trong các bên khi bên kia vi phạm lỗi trong phạm vi quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Những việc định lượng và đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người vợ, người chồng thực tiễn đến đâu và như thế nào thì cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể và phụ thuộc phần lớn vào kinh nghiệm và nhận định của đội ngũ Thẩm phán tham gia xét xử.
Thứ hai, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp quan hệ giao dịch với người thứ ba. Trong quan hệ với người thứ ba, pháp luật cũng có những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ khi ly hôn. Theo quy định chung, quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn nếu vợ, chồng và người thứ ba không có thỏa thuận khác. Với quy định như trên đã góp phần đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba khi giao dịch với vợ chồng có yêu cầu ly hôn. Nhưng pháp luật cũng rõ ràng hơn về quyền lợi chung của vợ chồng với người thứ ba được đảm bảo, cũng như nghĩa vụ của người chồng với người thứ ba không thể mất đi sau khi ly hôn.
Để đảm bảo quyền lợi cho người vợ, pháp luật quy định về trách nhiệm liên đới các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Theo đó, khi giao dịch với người thứ ba nếu người vợ không thể thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì người chồng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ này. Điều này cũng đảm bảo quyền lợi cho người vợ sở hữu tài sản của người vợ trong một khía cạnh nhất định. Theo quy định của pháp luật, để đảm bảo quyền sở hữu tài sản, pháp luật quy định về nghĩa vụ chung của vợ chồng đó là: nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ, chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật chồng cũng phải chịu trách nhiệm; Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của BLDS thì cha mẹ phải bồi thường Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan.
Quy định về nghĩa vụ chung như trên khi người vợ không thể thực hiện được nghĩa vụ trong giao dịch chung với người thứ ba trước hoặc sau ly hôn thì người chồng phải thực thi nghĩa vụ đó. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định, nếu người chồng xác lập, thực hiện giao dịch với người thứ ba mà không vì nhu cầu của gia đình thì người chồng phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Đây là quy định mới bổ sung những đáp ứng khá tốt trong thực tế vận dụng. Thực tế có rất nhiều trường hợp người chồng thực hiện những khoản vay vì việc riêng của mình nhưng khi người thứ ba thường yêu cầu lấy tài sản chung của vợ chồng để thực hiện việc thanh toán nợ. Quy định như trên nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ, tránh cho người vợ phải thực hiện nghĩa vụ mà do người chồng thực hiện mà không vì nhu cầu của gia đình. Để đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người vợ hơn nữa, pháp luật quy định nếu người chồng có nghĩa vụ về tài sản phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của mình thì phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng.
Thứ ba, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp sống chung với gia đình. Trong trường hợp người vợ sống chung với gia đình mà xảy ra việc ly hôn thì pháp luật cũng cần bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp này. Trường hợp thứ nhất đặt ra, tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không thể xác định được thì pháp luật vẫn đảm bảo cho vợ, chồng được hưởng một phần trong khối tài sản chung của gia đình. Việc cho người vợ được hưởng bao nhiêu phần trong khối tài sản chung đó dựa trên căn cứ việc đóng góp công sức tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung đó. Pháp luật cũng đảm bảo quyền tài sản của người vợ trong trường hợp này dựa trên nguyên tắc thỏa thuận.
Nếu các bên không thể thỏa thuận được thì mới phải nhờ đến Tòa án. Trường hợp thứ hai, vợ chồng chung sống với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình xác định được theo phần thì khi ly hôn phần tài sản của vợ chồng được chia theo nguyên tắc chia tài sản chung đã phân tích ở trên. Như vậy, trước đây pháp luật HN&GĐ không quy định trường hợp này nhưng trên thực tế khi ly hôn lại xảy ra rất nhiều. Do vậy, khi có quy định làm rõ về quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp sống chung với gia đình là căn cứ rất tốt để đảm bảo cho quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn.
Thứ tư, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp phân chia quyền sử dụng đất. Việc ghi nhận quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi ly hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng cũng là quy định nhằm đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người vợ. Thực tế, nhiều trường hợp trong gia đình do quá trình làm ăn, người chồng có kinh tế và thực hiện giao dịch mua bản quyền sử dụng đất. Khi đứng ra làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể chỉ ghi nhận tên người chủ sở hữu là tên người chồng. Trong khi đó, người vợ phải chăm sóc gia đình và không biết đến chuyện làm ăn của người chồng. Khi xảy ra ly hôn, người chồng coi tài sản tạo lập đó là của riêng mình và người vợ trong nhiều trường hợp vẫn chấp nhận điều đó.
Như vậy, quyền sở hữu tài sản của người vợ không được đảm bảo. Tuy nhiên, với quy định cụ thể này thì pháp luật chỉ ra rằng trong trường hợp này người vợ vẫn có đầy đủ quyền sở hữu đối với khối tài sản do người chồng tạo lập. Pháp luật còn tạo ra cơ chế bảo vệ hơn cho quyền lợi tài sản của người vợ với việc quy định rằng nếu người chồng không chứng minh được tài sản trên là tài sản riêng thì theo quy định đó là tài sản chung vợ, chồng. Thêm nữa, việc quy định quyền sử dụng đất của vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung vợ, chồng cũng góp phần đảm bảo quyền lợi của người vợ khi có sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thứ ba.
Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ do một bên là người chồng thực hiện. Những trường hợp như vậy đã xảy ra và người vợ cũng không được biết về việc xác lập giao dịch trên, không bảo vệ được quyền sở hữu tài sản của mình. Và nếu có bảo vệ được thì phải trải qua những vòng tố tụng kiện đòi tài sản rất phức tạp, tốn thời gian và công sức. Thêm nữa, hậu quả để lại rất phức tạp, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba. Ngoài ra, pháp luật bảo vệ quyền lợi của người vợ thông qua quy định nếu không có được sự thỏa thuận bằng văn bản của cả vợ và chồng về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì sẽ dẫn đến hậu quả là giao dịch có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu theo quy định của BLDS.
Thứ năm, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào sản xuất kinh doanh. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh nhằm phân định rõ quyền sở hữu tài sản của vợ chồng. Theo quy định của pháp luật, nếu người vợ, người chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Với quy định như trên, quyền lợi của các bên vợ, chồng đều được đảm bảo.
Quy định này không chỉ bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của người vợ mà còn giúp các bên ổn định tình hình sản xuất kinh doanh, công việc, đời sống, thu nhập từ việc khai thác tài sản chung không bị ảnh hưởng bởi sự kiện ly hôn của vợ hoặc chồng. Nhìn dưới góc độ tài sản là những tài sản hữu hình của vợ chồng đưa vào kinh doanh có thể được thực hiện được việc một bên có quyền nhận tài sản và thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng. Tuy nhiên, nếu tài sản đó mang tính chất vô hình thì rất khó có thể thực hiện việc chia tài sản chung trong trường hợp này, ví dụ: tài sản chung của vợ chồng là nhãn hiệu hàng hóa mà hai vợ chồng cùng gây dựng nên trong quá trình kinh doanh, điển hình như vụ án ly hôn nghìn tỷ gây chấn động của vợ chồng nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên...
Những trường hợp trên đặt ra câu hỏi rất khó cho việc xác định được phần tài sản phải thanh toán cho phía bên kia để người vợ hoặc người chồng được quyền giữ lại tài sản chung để tiếp tục thực hiện việc kinh doanh. Tuy nhiên, với quy định như trên pháp luật HN&GĐ đã hướng đến việc bảo vệ rất tốt quyền lợi của người vợ sau khi ly hôn trong việc phân chia tài sản chung mà vợ, chồng đưa vào kinh doanh.