Các giải pháp giải quyết xung đột đáp ứng nguyên tắc đồng thuận: Đối với những lĩnh vực chính – lĩnh vực chính trị – tư tưởng; Đối với tất cả các lĩnh vực nói chung.
1. Đối với những lĩnh vực chính – lĩnh vực chính trị – tư tưởng:
Một là, tạo ra cơ chế để các bên đồng thuận với nhau và đồng thuận với sự hướng dẫn chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng nhiệm vụ, từng giai đoạn phát triển của đất nước; tạo điều kiện để các lực lượng, thành phần chống đối đều thấy mình được tự do, được tôn trọng, có quyền bình đẳng được nói lên nguyện vọng, yêu cầu, hình thành và mở rộng các diễn đàn để thông qua đó các bên có điều kiện cùng trao đổi, thương lượng, đàm phán, thỏa thuận để đi đến thống nhất về tư tưởng và hành động với nhau.
Hai là, xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các khuynh hướng, lực lượng xã hội trong quá trình hoạch định chính sách, chiến lược phát triển kinh tế– xã hội của đất nước nhằm mục đích ngăn chặn, phòng ngừa các nguyên nhân dễ dẫn tới bị các lực lượng phản động lợi dụng để chống đối.
Ba là, kiên trì quan điểm lấy dân làm gốc, lấy lợi ích căn bản của đại đa số nhân dân làm điểm xuất phát và cơ sở của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này đòi hỏi các chủ thể lãnh đạo đất nước phải biết lắng nghe một cách nghiêm túc, chân thành những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và quần chúng nhân dân cũng phải hiểu biết những người cầm quyền của mình. Chỉ có đoàn kết dân tộc mới có sức mạnh để đối phó với các lực lượng thành phần đang nhằm nhe phá hoại đất nước.
Bốn là, mở rộng và thực thi có hiệu quả dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Qua đó nhằm động viên, phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả nạn quan liêu, tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo ra sự đồng thuận cao trong đời sống xã hội.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục để các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã hội tự nguyện thống nhất với nhau về các vấn đề cơ bản, vì mục tiêu và lợi ích chung của đất nước; chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân kết hợp với phát huy truyền thống nhân nghĩa, khoan dung của dân tộc.
Sáu là, có thái độ khách quan, khoa học trong việc nhận thức, phân tích và xử lý những quan điểm, tư tưởng lệch lạc, sai trái trong nhân dân; tích cực, chủ động trong việc giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đồng thuận xã hội. Việc giải quyết mâu thuẫn được thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, vận động, giác ngộ cách mạng trong quần chúng kết hợp với các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thực tế cho thấy, đồng thuận xã hội khó có thể được xây dựng và tồn tại bền vững trên nền tảng của sự yếu kém kéo dài về mọi mặt trong xã hội, nhất là về kinh tế. Nếu tình trạng trì trệ, yếu kém toàn diện kéo dài, nhất là về kinh tế, thì sớm muộn sẽ dẫn đến những biến cố gây bất ổn và rối loạn xã hội. Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã cho ta thấy điều này.
– Lĩnh vực đất đai
Thứ nhất, đảm bảo rằng các quyền tài sản của người sử dụng đất được bảo hộ đầy đủ. Để làm được điều này, trong thi hành Luật Đất đai 2013, cần thiết lập một hệ thống quản lý đất đai hiệu quả và các trình tự, thủ tục rõ ràng để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân.
Thứ hai, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương phải là ưu tiên hàng đầu về mặt chính sách để tránh tình trạng thu hồi đất tùy tiện và bất hợp pháp. Các khiếu kiện thu hồi đất hiếm khi xảy ra đối với chính quyền trung ương, chúng chủ yếu phát sinh trong quá trình thi hành luật ở địa phương. Vai trò và năng lực của Thanh tra Chính phủ trong lĩnh vực này phải được tăng cường để đảm bảo kỷ cương hành chính và thi hành pháp luật đúng đắn trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, phải đảm bảo sự tham gia tích cực của người dân bị thu hồi đất trong việc chia sẻ các lợi ích của chuyển đổi đất. Họ không chỉ được hưởng mức đền bù hợp lý mà phải có quyền thương lượng với nhà đầu tư theo những cách thức mới mẻ để chia sẻ lợi ích của chuyển đổi đất. Trong xác định giá đất, vai trò của thị trường như quy định trong Luật Đất đai 2013 cần được tăng cường.
Thứ tư, mở rộng áp dụng hòa giải cơ sở trong cả giai đoạn quy hoạch và thu hồi đất để người sử dụng đất có thể giới thiệu hòa giải viên/người trung gian hòa giải nhằm tạo ra các kênh giải quyết tranh chấp độc lập với lợi ích của chính quyền địa phương.
Thứ năm, xây dựng các hướng dẫn tái định cư ở cấp quốc gia nhằm cung cấp một tài liệu hướng dẫn chuẩn mực cho việc tiến hành thu hồi đất, tái định cư và đền bù.
Thứ sáu, xây dựng truyền thông có trách nhiệm là điều tối quan trọng trong việc nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương và đẩy mạnh sự tham gia tích cực của người sử dụng đất. Trước sự năng động của truyền thông xã hội, truyền thống nhà nước cần được đổi mới để phản ánh đa chiều lợi ích của cả cơ quan nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
Thứ bảy, mặc dù tòa án mới chỉ có một vai trò hạn chế trong giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng để tòa án có thể xét xử các vụ thu hồi đất bất hợp lý của chính quyền địa phương, cần phải có một hệ thống tòa hành chính thực sự vận hành. Để có thể xem xét việc thu hồi đất của chính quyền, tổ chức của hệ thống tòa án hành chính phải đảm bảo tính độc lập. Ví dụ, có thể cân nhắc tổ chức các cơ quan tài phán chuyên ngành về giải quyết tranh chấp đất đai ở cấp trung ương hoặc cấp vùng, chứ không tổ chức theo bộ máy hành chính cấp huyện và cấp tỉnh.
Thứ tám, các chính sách liên quan đến thu ngân sách và thuế tài sản phải được sửa đổi để tạo động cơ tìm kiếm nguồn thu ngân sách bền vững hơn, đặc biệt là chính quyền địa phương. Việc chia sẻ lợi ích từ chuyển đổi đất phải được điều tiết thông qua một tập hợp các chính sách thuế và tài khóa nhằm đảm bảo sự công bằng giữa cơ quan nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
– Lĩnh vực kinh tế – xã hội
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, pháp luật lao động và quan hệ lao động.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về lao động, pháp luật công đoàn, phù hợp với lộ trình và kế hoạch phê chuẩn các công ước của ILO (Công ước của ILO là văn kiện pháp lý quốc tế được Hội nghị Lao động Quốc tế với sự tham gia của các phái đoàn ba bên của các quốc gia thành viên thông qua) của Việt Nam.
Thứ hai, tăng cường vai trò quản lý nhà nước về quan hệ lao động.
– Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về quan hệ lao động từ Trung ương đến cơ sở để vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quan hệ lao động, vừa thực hiện tốt chức năng hỗ trợ thúc đẩy quan hệ lao động phát triển.
– Đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động cơ quan quản lý nhà nước chủ trì, phối hợp cùng tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động theo quyết định của thủ tướng chính phủ nhằm nâng cao nhận thức, ý thức và kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật lao động của người sử dụng lao động và người lao động.
– Phối hợp cùng tổ chức đại diện người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động cùng cấp hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả cơ chế đối thoại tại nơi làm việc nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người lao động đối với doanh nghiệp, cũng như thể hiện sự quan tâm của doanh nghiệp trong việc giải quyết các kiến nghị của người lao động; đẩy mạnh việc thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước lao động tập thể một cách thực chất và có hiệu quả, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động cũng như quyền và lợi ích của người sử dụng lao động, mở rộng diện bao phủ thỏa ước lao động tập thể thể đối với người lao động. Tổng kết mô hình thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, nhóm doanh nghiệp, để nhân ra diện rộng.
– Nghiên cứu mô hình để thành lập tổ chức thuộc cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý và đăng ký, giám sát hoạt động của các tổ chức của người lao động, tổ chức của người sử dụng lao động. Đây là nội dung mới, chưa có tiền lệ ở nước ta, do vậy cần có sự tham khảo đối với các nước có mô hình tương tự như của các nước trên thế giới, đồng thời cần có bước đi thận trọng vừa thực hiện được quyền tham gia tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời vừa thực hiện được vai trò quản lý của nhà nước.
Thứ ba, thúc đẩy đối thoại, thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể.
– Công đoàn cơ sở cần chủ động đề xuất các nội dung và yêu cầu người sử dụng lao động động tiến hành thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước lao động tập thể, bảo đảm quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động duy trì việc đối thoại thường xuyên nhằm cung cấp thông tin, chia sẻ những khó khăn cũng như những thành quả của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh; phát huy vai trò trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, sáng tạo của người lao động, tăng cường sự hợp tác giữa người lao động với người sử dụng lao động, xây dựng môi trường lao động thân thiện, lành mạnh.
– Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tăng cường bồi dưỡng kỹ năng đối thoại, thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể cho công đoàn cơ sở, hỗ trợ công đoàn cơ sở trong việc thu thập thông tin, đề xuất nội dung và yêu cầu, tiến hành đối thoại và thương lượng tập thể một cách thực chất và mang lại kết quả thiết thực.
– Tổ chức đại diện người sử dụng lao động tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người sử dụng lao động về vai trò, tầm quan trọng của đối thoại tại nơi làm việc và thương lượng tập thể. Phải coi đối thoại tại nơi làm việc và thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước lao động tập thể là những nội dung quan trọng và là cơ sở, nền tảng để quan hệ lao động phát triển tốt, bảo đảm được lợi ích của người sử dụng lao động cũng như người lao động trong doanh nghiệp.
– Cơ quan quản lý nhà nước cung cấp thông tin, hỗ trợ, tư vấn pháp luật, xây dựng cơ chế để thúc đẩy các bên đối thoại, thương lượng hiệu quả, thiết thực; tổng kết, giới thiệu các mô hình thương lượng tập thể hiệu quả để nhân ra diện rộng.
Thứ tư, nâng cao vai trò trách nhiệm của tổ chức đại diện người lao động. a) Đổi mới tổ chức, hoạt động của Công đoàn Việt Nam
– Đổi mới tổ chức, hoạt động của Công đoàn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để thực hiện hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Công đoàn Việt Nam.
Đối với tổ chức của người lao động ngoài hệ thống công đoàn Việt Nam:
– Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, kiện toàn các công cụ, biện pháp quản lý nhằm bảo đảm sự ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, tạo điều kiện để tổ chức này hoạt động thuận lợi, lành mạnh, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với các nguyên tắc của ILO, đồng thời giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
– Đối với tổ chức của người lao động ngoài hệ thống công đoàn Việt Nam, cần tuân thủ nghiêm túc tôn chỉ mục đích đề ra, hoạt động trên cơ sở các quy định của pháp luật, cạnh tranh bình đẳng để thể hiện được vai trò đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thành viên của mình, trên tinh thần tôn trọng các tổ chức khác của người lao động và tôn trọng lợi ích của người sử dụng lao động.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống tổ chức, chức năng nhiệm vụ của tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
– Cần phải luật pháp hóa quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong quan hệ lao động, quy định cụ thể hơn quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức đại diện của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng lao động.
– Các tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở Trung ương cần phải hướng tới việc tập hợp, liên kết các tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở các ngành, các địa phương, các tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành thành viên chính thức của mình, tạo nên sức mạnh xuyên suốt trong hệ thống để thực hiện tốt chức năng đại diện bảo vệ quyền và lợi ích của người sử dụng lao động.
Thứ sáu, hoàn thiện các thiết chế về giải quyết tranh chấp lao động.
– Nghiên cứu xây dựng thí điểm cơ quan chuyên trách giải quyết tranh chấp lao động ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nếu có điều kiện với vai trò vừa là cơ quan làm nhiệm vụ trung gian hòa giải, trọng tài, vừa là cơ quan hỗ trợ, thúc đẩy đối thoại và thương lượng tập thể.
– Hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế giải quyết tranh chấp lao động hiện tại. Bổ sung vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng trọng tài lao động, bảo đảm giải quyết cả các vụ tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể theo yêu cầu của một trong hai bên.
– Thiết lập cơ chế hiệu quả để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của người sử dụng lao động. Trong đó, đặc biệt là các hành vi can thiệp nội bộ của người sử dụng lao động đối với hoạt động của tổ chức công đoàn cơ sở.
Thứ bảy, củng cố và hoàn thiện cơ chế tham vấn ba bên về quan hệ lao động.
Xác định rõ mô hình tổ chức tham vấn ba bên ở cấp trung ương và địa phương, bảo đảm vừa thực hiện tốt vai trò tư vấn cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc xây dựng và ban hành các chính sách về quan hệ lao động, vừa tham vấn và hỗ trợ các đối tác trong việc thực thi các quy định của pháp luật về quan hệ lao động, thúc đẩy cơ chế đối thoại, thương lượng tập thể tại nơi làm việc. Tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Tiền lương quốc gia; nghiên cứu, xây dựng và đề xuất các tiêu chuẩn, tiêu chí làm căn cứ khoa học để xác định và điều chỉnh mức lương tối thiểu theo vùng, mức lương tối thiểu giờ cho phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển, làm cơ sở để Chính phủ ban hành.
Thứ tám, tiếp tục triển khai thực hiện.
Các dự án về nhà ở và các công trình phúc lợi, xã hội (trường học, nhà mẫu giáo, các thiết chế văn hóa phục vụ công nhân lao động ở các khu công nghiệp tập trung góp phần thúc đẩy và củng cố quan hệ lao động phát triển.
2. Đối với tất cả các lĩnh vực nói chung:
– Xây dựng Đảng và Chính quyền
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, phòng ngừa tốt các xung đột xã hội, điều trước tiên, cần quán triệt sâu sắc và có kế hoạch chu đáo việc kiểm điểm, phê bình Đảng viên theo nội dung của các Nghị quyết trung ương, gắn việc kiểm điểm, phê bình với việc củng cố, xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở. Chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt chi bộ, đảng bộ cơ sở. Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm cho mọi đảng viên thực hiện quyền phê bình, đấu tranh trên tinh thần xây dựng và quyền tố giác với cấp trên về sai phạm của đảng viên khác trong chi bộ và đảng bộ.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm tra định kỳ, đột xuất theo vụ việc để phân loại đội ngũ cán bộ cơ sở, kết luận, xử lý những đảng viên bị tố cáo và kiểm tra những nơi có dấu hiệu tham nhũng, vi phạm pháp luật, mất đoàn kết nội bộ.
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quy định những điều đảng viên không được làm trong đó có việc nghiêm cấm đảng viên hoạt động bè phái, gây mất đoàn kết, gây chia rẽ cục bộ địa phương, trù dập người phê bình, góp ý kiến trái với mình; quan liêu, thiếu trách nhiệm; lợi dụng chức quyền để trục lợi, tố cáo sai sự thật, tổ chức kích động, xúi giục, lôi kéo, cưỡng ép người khác đi khiếu kiện.
Để xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh về mọi mặt cần có sự tổng kết, đánh giá chung và nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện trên cơ sở đó xác định rõ về phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quy mô và cách thức tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và đội ngũ cán bộ ... chính quyền cấp cơ sở phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội hiện nay.
Kiện toàn ban thanh tra nhân dân và các tổ hòa giải ở thôn, xã để giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân. Xây dựng các mô hình quần chúng tự quản tại các khu dân cư thôn, xóm, ấp, bản ... để phát huy vai trò dân chủ của nhân dân trong quản lý đời sống xã hội. Có thể tổ chức cho nhân dân bầu trực tiếp chức danh trưởng thôn, bản, ấp, xóm.
– Xây dựng các đoàn thể nhân dân
Khắc phục tình hình thức và hành chính trong hoạt động trong các tổ chức này hiện nay. Các tổ chức quần chúng phải thu hút được các quần chúng thành viên và định hướng hoạt động cho quần chúng bằng công tác vận động, tuyên truyền, quan tâm đến lợi ích chung và hoàn cảnh cụ thể của các thành viên. Cán bộ phụ trách phải hòa mình với quần chúng để hiểu được quần chúng và giúp đỡ họ phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Các đoàn thể cần vận động quần chúng nhân dân xây dựng làng, xã văn minh, giàu đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; động viên, tổ chức quần chúng kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền và đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí.
Khi đoàn viên có tâm tư, thắc mắc hoặc trong cộng đồng dân cư có mâu thuẫn, tranh chấp, cán bộ phụ trách gặp gỡ để trao đổi, xem xét, giải quyết. Các đoàn thể cần hướng dẫn, vận động quần chúng tích cực tham gia công tác xây dựng đảng, chính quyền cơ sở; thường xuyên phản ánh với đảng và chính quyền những ý kiến đóng góp, phê bình của nhân dân
– Đổi mới và hoàn thiện các chủ trương, chính sách và pháp luật
Xây dựng chiến lược đối với tôn giáo và dân tộc thiểu số: Tôn giáo và dân tộc là vấn đề thời sự, thời đại, có tính quốc tế và tồn tại lâu dài, trong thực tiễn có nhiều cuộc xung đột xã hội bắt nguồn từ tôn giáo và dân tộc thiểu số.
Tư duy đó cần được thể hiện trong việc xây dựng chiến lược đối với tôn giáo và dân tộc.
Hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai: Hoàn thiện và thực hiện đúng chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, đề nghị sớm tổng kết, đánh giá để có cơ sở sửa đổi, bổ sung các quy định về chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Hoàn thiện chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bảo đảm quyền lợi cho người sản xuất nông nghiệp. Đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, chủ yếu là công trình thủy lợi, điện, đường, trường trạm. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các dự án cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Hoàn thiện chính sách tài chính, ngân hàng cho cơ sở: Trung ương tiếp tục phân cấp cho địa phương về ngân sách, về quản lý văn hóa, giáo dục, tổ chức cán bộ. Chính quyền cấp tỉnh giao thêm quyền hạn cho cấp huyện về quản lý đất đai, xây dựng giao thông....
Hoàn thiện chính sách pháp luật về lao động: Biểu hiện cao nhất trong xung đột của quan hệ lao động chính là các cuộc đình công, vì vậy, giải pháp để phòng ngừa xung đột lao động chính là việc kiểm soát, hạn chế và giải quyết các cuộc đình công. Một số các giải pháp chính về mặt chính sách và pháp luật có thể áp dụng là: Xây dựng và thực hiện chính sách cân đối cung, cầu lao động; Xác lập và thực hiện cơ chế ba bên ở Việt Nam, thúc đẩy thương lượng tập thể; Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động; Hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật môi trường thích hợp nhằm điều hòa cân bằng các lợi ích khác nhau trong xã hội. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật phải dựa trên cơ sở xem xét một cách toàn diện những lợi ích khác nhau của các chủ thể khác nhau liên quan đến khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên. Do đó, quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, đặc biệt là chính sách và pháp luật về môi trường phải có sự tham gia rộng rãi của các nhóm chủ thể đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau của xã hội. Nhà nước phải đảm bảo việc xác định mức cân bằng lợi ích (chủ yếu là lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và lợi ích môi trường) thông qua những chính sách cụ thể và các quy định cụ thể.
– Xây dựng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ tại cơ sở, khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, gây phiền hà cho nhân dân
Cần phổ biến, quán triệt sâu sắc chủ trương, nội dung các quy định của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của chính quyền cấp trên.
Xây dựng, tổ chức thực hiện nghiêm túc những nội dung đã quy định trong quy chế dân chủ tại cơ sở như: bảo đảm cho nhân dân quyền được thông tin về chủ trương, pháp luật, những quyết định của chính quyền liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở; nhân dân phải biết về biết về việc sử dụng công quỹ, tài sản công, thu chi tài chính, các khoản đóng góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng ở địa phương...
Cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng phải gương mẫu trong việc học tập, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên tự kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện, lắng nghe tiếp thu ý kiến của nhân dân trong quá trình thực hiện.
– Chủ động giải quyết khiếu nại, tố cáo, các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột ngay tại cơ sở
Để làm tốt công tác này, trước hết Đảng và Nhà nước phải nghiên cứu, tổng kết công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa Luật giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân đã được ban hành, trong đó cần xác định rõ, cụ thể hơn phạm vi, mức độ, trách nhiệm quyền hạn của người khiếu nại, tố cáo; các hình thức, biện pháp xử lý những cơ quan, đơn vị, cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời, khách quan các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Để khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và đơn thư khiếu nại, tố cáo bị chuyển vòng vo đến quá nhiều nơi.
Để tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp cơ sở, cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Chính quyền cơ sở phải nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong nhân dân.
Chủ động giải quyết các khiếu nại, tố cáo và mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ngay từ cơ sở.
Các cấp chính quyền tỉnh, huyện thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ chính quyền cơ sở.
Đổi mới công tác tiếp dân và tiếp nhận đơn thư, thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền và nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.