Giải quyết xung đột xã hội dựa trên nền tảng của quản trị tốt, nền tảng của pháp quyền? Kết hợp vai trò của nhà nước và xã hội trong giải quyết xung đột xã hội? Giải quyết xung đột xã hội dựa trên các yêu cầu của nguyên tắc đồng thuận?
1. Giải quyết xung đột xã hội dựa trên nền tảng của quản trị tốt:
Theo cách hiểu thông thường, đồng thuận là cùng đồng tình, bằng lòng với ý kiến, sự việc được nêu ra. Điều này là kết quả của sự tự giác, tự nguyện đồng ý của mọi người với nhau mà không có bất kỳ một sự cưỡng bức, áp đặt nào theo đó đồng thuận xã hội là kết quả của khế ước xã hội, của sự đàm phán, thỏa thuận xã hội. Cơ sở của đồng thuận chính là sự tương đồng dựa trên những giá trị, chuẩn mực chung.
Thực tế thực hiện các yếu tố liên quan đến Quản trị Nhà nước cho thấy, yếu tố đồng thuận không phải là yếu tố tự sinh ra giữa các nhóm người có lợi ích khác nhau trong xã hội mà vấn đề cần quan tâm là phải chỉ ra được cách thức để tìm được sự đồng thuận của người dân đối đối với Nhà nước thông qua các hoạt động nhằm điều hòa lợi ích của cá nhân công dân, của tổ chức và của nhà nước, có như vậy mới thiết lập được một xã hội có tính đồng thuận cao, đảm bảo lợi ích của cộng đồng. Từ đó tránh được các xung đột chưa đáng có.
Tuy nhiên, để đạt được đồng thuận thì không phải cứ đảm bảo lợi ích của các bên là được mà cần phải một loạt biện pháp sau mới có thể có được sự đồng thuận của cả xã hội dựa trên nền tảng của quản trị tốt, bao gồm:
– Trong việc quản lý Nhà nước, phải coi trọng sự tham gia của các chủ thể trong xã hội.
– Nhà nước cần tạo ra khuôn khổ, hành lang pháp lý công bằng và tạo cho người dân thói quen sống và làm việc theo pháp luật. tóm lại đó là giải quyết các xung đột pháp luật còn tồn tại.
– Trong quá trình tổ chức thực hiện, ban hành các quyết sách, phải minh bạch rõ ràng, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin cho người dân.
– Nhà nước cần đảm bảo phục vụ công bằng mọi đối tượng khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc.
– Bộ máy nhà nước nói chung hay những người nắm giữ và thực hiện quyền lực công phải có trách nhiệm giải trình những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.
Có thể thấy sự bổ trợ của các biện pháp trên khi được thực hiện đầy đủ sẽ dễ dàng tạo nên mối gắn kết, tin tưởng của người dân vào Nhà nước. Từ đó sự đồng thuận sẽ phát triển, các xung đột xã hội cũng sẽ được giải quyết, Nhà nước cũng sẽ có được sự ủng hộ của toàn xã hội trong việc quản trị, ban hành chính sách và xã hội cũng được Nhà nước ủng hộ các quyền con người, lợi ích hợp pháp của cộng đồng.
2. Giải quyết xung đột xã hội dựa trên nền tảng của pháp quyền:
Ở Việt Nam, pháp luật thường được quan niệm theo nghĩa hẹp là “hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của nhân dân được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng những cách thức nhất định trong đó có cưỡng chế Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội để bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và sự phát triển của xã hội”. Nếu như chỉ nhìn vào khái niệm trên, ta có thể thấy sẽ không thể có xung đột gì xảy ra, vì mọi thứ mà pháp luật hướng tới đều là vì các quyền, lợi ích của con người và xã hội, nó như là sinh ra để phục vụ và phục tùng con người. Nếu như chỉ hiểu pháp luật theo nghĩa hẹp, nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam không mấy thành công trong việc giải quyết các xung đột xảy ra trong pháp luật.
Từ các tiếp cận Pháp luật và phát triển, không thể nhìn pháp luật như một hiện tượng riêng rẽ với đời sống riêng của nó. Thay vào đó, pháp luật “là sản phẩm của các quan hệ xã hội và quyền lực đồng thời là công cụ thách thức và tái định hình các công cụ đó”. Cần nhìn nhận pháp luật trong mối quan hệ với một loạt các hiện tượng liên quan như “tư tưởng pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật và thực tiễn pháp luật và thậm chí phải mở rộng cách tiếp cận pháp luật từ góc nhìn khác.
Làm cho pháp luật phát huy hiệu quả mong muốn là một thách thức lớn vì pháp luật có thể gây ra những ảnh hưởng trái ngược: Pháp luật có thể thúc đẩy các nhân tố mới phát triển nhưng lại có thể củng cố quyền lực hiện tại, pháp luật có thể đem lại trật tự trật tự và ổn định nhưng lại có thể gây ra xung đột, rối ren; pháp luật có thể củng cố hoặc hủy hoại tính chính đáng; pháp luật có thể tạo ra sự đấu tranh cấu trúc hoặc có thể dập tắt sự tương tác phản biện đó.
Để đảm bảo việc điều chỉnh pháp luật chính xác, không gây ra va chạm, xung đột giữa các lợi ích nhóm, thì việc đảm bảo sự đồng thuận xã hội trong quản trị nhà nước đóng vai trò rất lớn. Chúng ta phải hiểu pháp luật được hình thành với sự tham khảo ý kiến của các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Sự tham dự của các chủ thể này có thể gián tiếp hoặc trực tiếp. Ngoài ra quy trình lập hiến, lập quy còn phải có sự tham gia của người dân với tư cách cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau như lấy ý kiến, đóng góp ý kiến về các dự thảo luật. Nhìn chung Pháp luật muốn đảm bảo sự đồng thuận phải tiếp cận dưới góc độ “từ dưới lên” tức là mọi chính sách, pháp luật và chương trình của nhà nước được đưa ra trên cơ sở ý nguyện, đề xuất của nhân dân.
Không thể (rất khó) có đồng thuận xã hội nếu các chính sách, pháp luật của Nhà nước thể hiện một chiều quan điểm, đường lối từ trên xuống dưới, mang tính áp đặt. Đi cùng với đó là việc các nhà lãnh đạo đưa ra những chính sách đúng đắn và phù hợp, chỉ đạo việc cụ thể hóa những chính sách đó trong hệ thống các văn bản pháp luật, đưa ra những biện pháp cụ thể để thi hành các chính sách và quy định đó. Chính sách đúng đắn và phù hợp về kiểm soát xung đột lợi ích là những định hướng lớn về kiểm soát xung đột lợi ích phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội và các đặc thù về văn hóa, chính trị của đất nước, bảo đảm việc cụ thể hóa vào hệ thống pháp luật một cách đồng bộ với lộ trình thích hợp. Quá trình cụ thể hóa này đòi hỏi sự chỉ đạo liên tục, sát sao của các nhà lãnh đạo, đòi hỏi sự phát huy trí tuệ tập thể của toàn xã hội trên cơ sở những luận cứ khoa học đã được xây dựng chắc chắn.
Việc xây dựng pháp luật để tránh xảy ra xung đột, đảm bảo được nguyên tắc đồng thuận xã hội đặt ra rất nhiều thách thức, nhất là với những xã hội tồn tại nhiều các nhóm, tầng lớp, giai cấp khác biệt về lịch sử, văn hóa, xã hội sẽ dẫn đến xung đột, chia rẽ. Hiện nay, xung đột pháp luật là một xu hướng, hay là một yếu tố tất yếu do “lợi ích nhóm” vẫn còn tồn tại. Các chính sách pháp luật mặc dù tiến bộ không ngừng, nhưng khi thực hiện lại bị “biến dạng”, “thay đổi” bàn các cách khác nhau do các nhóm lợi ích khác nhau. Vì vậy để tránh xung đột pháp luật, đạt được nguyên tắc đồng thuận của các nhóm lợi ích ta cần thực hiện một số biện pháp trước mắt sau:
– Tích cực tìm kiếm ý kiến của các nhóm lợi ích quan tâm hoặc bị ảnh hưởng bởi chính sách.
– Khuyến khích các nhóm lợi ích tham gia tích cực trong việc xây dựng chính sách, pháp luật. Sự tham gia thường tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và cải thiện sự tuân thủ, đồng thuận và hỗ trợ chính trị với các chính sách, quy định pháp luật mới.
– Công khai các chính sách, quy định đang được đề xuất, mà trong đó các bên và nhóm lợi ích quan tâm có thể bình luận trực tiếp.
– Tăng cường trao đổi thông tin về các chính sách, quy định pháp luật giữa Nhà nước với các nhóm lợi ích khác nhau nhằm tạo sự đồng thuận nhất quán trong việc thực thi, ban hành pháp luật.
Việc giải quyết xung đột xã hội phải dựa trên cơ sở của pháp luật:
– Xung đột xã hội được xem xét và giải quyết bởi cơ quan được Nhà nước trao quyền (hoặc nói cách khác: bởi cơ quan có thẩm quyền).
– Cơ quan giải quyết xung đột xã hội hoạt động trên cơ sở và để thi hành các quy phạm pháp luật.
– Trong quá trình giải quyết xung đột, các bên xung đột có các quyền và nghĩa vụ nhất định do pháp luật quy định.
– Quyết định do cơ quan giải quyết xung đột đưa ra có hiệu lực thực hiện bắt buộc đối với các bên cũng như đối với các cá nhân và tổ chức khác có liên quan.
– Các phương tiện pháp lý giải quyết xung đột xã hội có thể được phân thành 03 nhóm cơ bản: các thủ tục giải quyết theo Hiến pháp chủ yếu được áp dụng đối với xung đột xuất hiện trong lĩnh vực chính trị; Xem xét, giải quyết các vụ việc tại Tòa án và cơ quan trọng tài; Các thủ tục hành chính, được áp dụng trong các cơ quan thi hành pháp luật khác nhau.
– Các thủ tục pháp lý xem xét giải quyết xung đột xã hội phải đảm bảo tính công khai và như vậy đảm bảo sự kiểm tra của xã hội đối với quá trình giải quyết vụ việc và rõ ràng là nâng cao uy lực của các quyết định đã được đưa ra. Đây cũng là sức mạnh của nguyên tắc đồng thuận được áp dụng vào việc giải quyết xung đột thông qua pháp luật.
3. Kết hợp vai trò của nhà nước và xã hội trong giải quyết xung đột xã hội:
Sự trung gian của bên thứ ba có thể là hướng độc lập trong sự điều chỉnh xung đột. Trong lý luận, hướng này có tên gọi là trung gian học về xung đột. Trong phạm vi của nó, người ta nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn khác nhau từ ranh giới áp dụng chế định trung gian đến các đòi hỏi đối với nhân thân của chính người làm trung gian.
Đối với những xung đột xã hội có quy mô và ý nghĩa chính trị lớn, Nhà nước hoặc bất kì tổ chức Chính phủ nào của nó cũng có thể giữ vai trò thẩm phán trọng tài. Các bên xung đột, về nguyên tắc, muốn gặp và làm việc với các tổ chức Chính phủ là vì:
– Các cơ quan của Chính phủ có những của cải, vật chất có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống của con người và việc sử dụng trong một tổng thể tất cả những của cải vật chất đó có thể tác động đáng kể đến diễn biến thậm chí là hạn chế một cách đáng kể hoặc làm chấm dứt cuộc xung đột xã hội.
– Các tổ chức Nhà nước có khả năng sử dụng sự cưỡng chế một cách hợp pháp; Áp dụng các chế tài kinh tế, các chế tài hình sự, các chế tài hành chính .... Thậm chí cả lực lượng vũ trang.
– Chính phủ nắm trong tay một lượng đáng kể thông tin xã hội, vì vậy có khả năng đưa thông tin một cách khách quan và tốt nhất về tình hình những vụ việc vốn là nguyên nhân của xung đột xã hội và có thể quản lý thông tin đó, kêu gọi các bên xung đột thảo luận một cách hòa bình những vấn đề mà họ bức xúc, hơn thế, Nhà nước còn có các phương tiện thông tin đại chúng đầy hiệu quả.
– Ngoài có tính thẩm quyền, khả năng trọng tài của Chính phủ còn được bắt nguồn từ truyền thống uy tín lâu đời của quyền lực hợp pháp, từ truyền thống nghe lời và phục tùng của người dân đối với chính phủ.
– Ở khắp mọi nơi, Chính phủ cũng được thừa nhận là thiết chế cần thiết mà sự trực thuộc nó được coi là hiện tượng hoàn toàn bình thường và không gây cảm giác ngấm ngầm trả thù và phục thù.
Song hành với vai trò trung gian của Nhà nước thì xã hội cũng có vai trò to lớn trong việc giải quyết các xung đột xã hội. Xã hội bao giờ cũng là một chỉnh thể chứa đựng trong bản thân nó toàn bộ các mối quan hệ: con người – thiên nhiên, con người – con người, cá nhân – cộng đồng, nhà nước – công dân ... và các cấu trúc mang tính tổ chức: các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, các giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng, các nhóm … mà ở đó luôn tồn tại các mâu thuẫn: nhận thức, nhu cầu, lợi ích, vị thế và quyền lực, vv .. Các mâu thuẫn đó có thể dẫn đến xung đột. Chính vì vậy phân tích được xã hội sẽ góp phần gỡ bỏ những nút thắt trong các mâu thuẫn trong chính nó, từ đó hạn chế được các xung đột xảy ra, tiêu biểu như:
Trong quá trình quản lý và giải tỏa xung đột xã hội, việc phân loại xung đột và xác định đúng diễn biến, các giai đoạn phát triển của xung đột xã hội có ý nghĩa rất lớn. Phân loại đúng đắn hay không phụ thuộc vào năng lực quản lý xung đột, tức nhờ vào tri thức, kỹ năng và thái độ của các chủ thể xung đột và quản lý xung đột. Năng lực quản lý xung đột xã hội, như là một trình độ của văn hóa chính trị, khi nó giúp cho việc xác định kịp thời các loại hình xung đột, từ tính chất, quy mô cho đến các lĩnh vực và mức độ. Trên cơ sở đó, có thể áp dụng các phương thức quản lý, giải tỏa phù hợp.
Chủ thể quản lý xung đột xã hội được coi là có năng lực, khi nhận thức được tính chất, đặc điểm của các loại hình, các quy mô của xung đột; nắm chắc diễn biến, tính chất của các giai đoạn xung đột: từ giai đoạn ngấm ngầm đến giai đoạn công khai, căng thẳng, đối đầu, không tương dung giữa các bên xung đột, có kỹ năng giải tỏa phù hợp, hiệu quả, với một thái độ khoa học, khách quan. Xã hội cung cấp cho nhà quản lý xung đột các chỉ báo về mức độ căng thẳng của xung đột xã hội, làm cơ sở cho việc lựa chọn các phương pháp quản lý. Trong một tình huống xung đột, nhờ quan sát và đánh giá được sự xói mòn, vi phạm, xúc phạm, coi thường, đảo lộn các giá trị (dân chủ, pháp quyền, chủ quyền quốc gia ...), các chuẩn mực các quy tắc ứng xử (thượng tôn pháp luật, lợi ích quốc gia trên hết, bình đẳng sắc tộc và tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận ...) các biểu tượng quốc ca, quốc kỳ..) bị xúc phạm, bị đảo lộn, bị coi thường, bị bỏ qua ... mà nhà quản lý có thể đánh giá được xung đột đang ở giai đoạn nào.
Các phương pháp quản lý và giải tỏa xung đột đúng, có ý nghĩa quyết định thành công của quản lý và giải tỏa xung đột xã hội. Cách biểu hiện của xã hội trong các xung đột có tác động mạnh mẽ đến việc lựa chọn các phương thức quản lý. Chỉ có sự thấu hiểu xã hội chúng ta mới có thể chọn các phương thức phù hợp. Nhắc đến xã hội chính là nhắc đến sự đề cao chủ nghĩa cộng đồng sẽ ảnh hưởng lớn đến cách lựa chọn phương thức quản lý xung đột.
Đối với các tổ chức xã hội, ngăn ngừa xung đột cũng dần trở thành nhiệm vụ quan trọng với mục tiêu góp phần ngăn ngừa bùng phát và tái diễn xung đột từ sớm, giảm thiểu tổn thất về người và vật chất do xung đột gây ra. Vấn đề ngăn ngừa xung đột dần được quy định, thể chế hóa trong những văn kiện chính sách, cơ quan trực thuộc quan trọng của các tổ chức xã hội này. Đồng thời vai trò giám sát của người dân, tổ chức xã hội và báo chí đối với việc quản trị Nhà nước cũng góp phần làm giảm thiểu các nguyên nhân dẫn đến xung đột như ở phần nguyên nhân xung đột đã đề cập.
4. Giải quyết xung đột xã hội dựa trên các yêu cầu của nguyên tắc đồng thuận:
Đồng thuận hàm chứa các nguyên tắc dân chủ chung và các quyền con người vốn được vốn được xây dựng bằng hệ thống các biện pháp đặc biệt, các chương trình chuyên sâu mà nói cách khác là bằng chính sách đa dạng và tự trị về văn hóa và trong một loạt các trường hợp là quan niệm về tự quản vùng và cộng đồng.
Kiện toàn các bạn thanh tra nhân dân và các tổ hòa giải ở thôn, xã để giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân. Xây dựng các mô hình quần chúng tự quản tại các khu dân cư thôn, xóm, ấp, bản ... để phát huy vai trò dân chủ của nhân dân trong quản lý đời sống xã hội
Các tổ chức quần chúng phải thu hút được các quần chúng thành viên và định hướng hoạt động của quần chúng bằng công tác vận động, tuyên truyền, quan tâm đến lợi ích chung và hoàn cảnh cụ thể của các thành viên. Khi thành viên đoàn thể có tâm tư, thắc mắc hoặc trong cộng đồng dân cư có mâu thuẫn, tranh chấp, cán bộ phụ trách gặp gỡ thành viên của mình để trao đổi, xem xét, giải quyết. Các đoàn thể cần hướng dẫn, vận động quần chúng tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền ở cơ sở; thường xuyên phản ánh với Đảng và chính quyền những ý kiến đóng góp, phê bình của nhân dân.
Xây dựng, tổ chức thực hiện nghiêm túc những nội dung đã quy định trong quy chế dân chủ tại cơ sở: bảo đảm cho người dân quyền được thông tin về chủ trương, pháp luật, những quyết định của chính quyền liên quan trực tiếp đến lợi ích và đời sống của người dân tại cơ sở.
Nhân dân phải được bàn và quyết định những việc liên quan trực tiếp đến đời sống, quyền lợi của mình như huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và công trình phúc lợi, lập các loại quỹ… Định kỳ chính quyền báo cáo công việc trước dân, tiếp và trả lời thắc mắc, khiếu kiện của dân. Tạo điều kiện cho các đoàn thể quần chúng và nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, của cán bộ, đảng viên nhất là những cán bộ, đảng viên chủ chốt trong tổ chức Đảng, chính quyền.
Một trong những cơ sở của nguyên tắc đồng thuận là vấn đề phát huy dân chủ và thực hiện công bằng xã hội. Thực ra, việc đảm bảo lợi ích cho các thành viên trong cộng đồng cũng như giải quyết các mâu thuẫn xã hội, đặc biệt những mâu thuẫn về lợi ích, xét ở một góc độ nào đó cũng chính là nhằm tạo ra công bằng xã hội. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm công bằng xã hội rộng hơn nhiều. Đó không chỉ là công bằng về mặt lợi ích, mà còn công bằng trong phân phối, công bằng trong phát triển, công bằng trong đối xử.... và đặc biệt, nó gắn liền với vấn đề dân chủ.
Việc đảm bảo và giải quyết những mâu thuẫn về mặt lợi ích, nhất là những lợi ích về vật chất không phải lúc nào cũng mang đến công bằng cho xã hội. Khi xã hội ngày càng phát triển, thì vấn đề công bằng xã hội và vấn đề dân chủ dường như lại quan trọng hơn các yếu tố khác. Khi đó, để đạt được sự đồng thuận xã hội trong việc giải quyết xung đột xã hội, đòi hỏi phải đối xử một cách công bằng và dân chủ đối với mỗi thành viên trong cộng đồng hay trong xã hội. Khi một đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định nào đó được đưa ra thì một trong những yếu tố hết sức quan trọng là có được sự tin tưởng, ủng hộ của các thành viên, lực lượng, tầng lớp trong xã hội.
Có thể coi công bằng xã hội là điều kiện khách quan để giải quyết xung đột xã hội theo nguyên tắc đồng thuận và trách nhiệm xã hội là điều kiện chủ quan. Điều đó thể hiện ở chỗ, muốn đạt được đồng thuận xã hội, một trong những điều kiện quan trọng là mọi thành viên trong cộng đồng, các thành phần, giai cấp của xã hội cần phải được đối xử một cách công bằng, bình đẳng, tôn trọng mà không có sự phân biệt đối xử.
Trong đó, công bằng về quyền lợi và lợi ích đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Công bằng gắn liền với dân chủ, đó là hai yếu tố đó là hai yếu tố quan trọng tạo nên công bằng và bình đẳng trong đời sống vật chất và tinh thần của xã hội – cơ sở để tạo nên đồng thuận xã hội. Giữ đồng thuận xã hội và dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Cho nên, xây dựng sự đồng thuận xã hội chính là tiến tới xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ; ngược lại, dân chủ càng được bảo đảm, các nguyên tắc dân chủ càng được coi trọng thì càng đạt được sự đồng thuận cao.