Căn cứ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm? Thủ tục và hình thức kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự?
1. Căn cứ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 yêu cầu nội dung của đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải có lý do kháng cáo, lý do, căn cứ kháng nghị (điểm c khoản 2 Điều 332, điểm d khoản 2 Điều 336). Tuy nhiên Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lại không quy định cụ thể căn cứ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thực tiễn xét xử cho thấy, bị cáo, bị hại và các đường sự có kháng cáo khi họ nhận thấy quyền và lợi ích của mình hoặc của người mà mình đại diện, bảo vệ không được đảm bảo.Thông thường, bị cáo và người đại diện của họ kháng cáo với mục đích xin giảm nhẹ hình phạt, thay đổi tội danh nhẹ hơn, giảm mức bồi thường thiệt hại... Bị hại, người đại diện của họ thường kháng cáo với mục đích yêu cầu tăng hình phạt, thay đổi tội danh nặng hơn, tăng mức bồi thường thiệt hại,...
Đối với căn cứ kháng cáo,người tham gia tố tụng có thể thực hiện quyền kháng cáo theo đánh giá chủ quan của họ, tức là dù bản án sơ thẩm đã đúng pháp luật những người tham gia tố tụng không đồng ý với bản án, quyết định sơ thẩm thì họ có thể kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại. Tuy nhiên khác với kháng cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định sơ thẩm không thể tùy thuộc vào ý muốn chủ quan mà phải có căn cứ pháp luật.
Ví dụ như trong vụ án Lê Trọng Huỳnh, sinh năm 1996, trú tại thôn Trung Hưng, xã Thạch Hưng, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2020/HSSTngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh đã tuyên phạt bị cáo Lê Trọng Huỳnh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt Huỳnh 18 tháng tù giam. Bị cáo đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định giữ nguyên mức hình phạt 18 tháng tù giam đối với bị cáo Lê Trọng Huỳnh. Qua ví dụ thực tế trên có thể thấy, kháng cáo thường mang tính chất chủ quan của người kháng cáo, chủ yếu mang mục đích đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của mình hoặc của người mà mình đại diện, bảo vệ. Vậy nên khi xét xử phúc thẩm, Tòa án phúc thẩm cần nghiên cứu, đánh giá chính xác tính chất, mức độ của hành vi phạm tội để đưa ra phán quyết khách quan nhất.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tại một điều luật cụ thể nào mà chỉ thông qua một số điều luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS để xác định căn cứ kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm như: “oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội”(điểm d khoản 1 Điều 266); “có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng” (khoản 5 Điều 267). Như vậy, VKS kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm khi có căn cứ bản án, quyết định đó của Tòa án có oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã gián tiếp chỉ ra trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị VKS kháng nghị. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 37 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ–VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao) (sau đây gọi tắt là Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử). Theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
Thứ nhất, việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến đánh giá không đúng tính chất của vụ án. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã không xem xét, hoặc xem xét chưa triệt để vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc điều tra, xét hỏi công khai tại phiên tòa không đầy đủ sẽ dẫn đến việc bản án, quyết định sơ thẩm đánh giá không đúng tính chất của vụ án, từ đó gây oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Đó là khi, kết luận trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được điều tra, xác minh tại phiên tòa, không phản ánh đúng đắn bản chất của việc phạm tội.
Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của BLHS, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác. Bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc làm thay đổi bản chất vụ án, “hậu quả giải quyết vụ án của Tòa án không đúng với quy định của pháp luật”, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm có vi phạm trong việc áp dụng các quy định BLHS, BLDS và các văn bản pháp luật khác là căn cứ để kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Thứ tư, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. Thành phần Hội đồng xét xử vi phạm Điều 254 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 hoặc thủ tục tố tụng có thực hiện không đúng, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện.
Qua thực tiễn cho thấy các căn cứ kháng nghị này là phù hợp, tuy nhiên vẫn chỉ là quy định mang tính chất nội bộ của ngành Kiểm sát nên trên thực tế có nhiều trường hợp chưa có cách hiểu thống nhất trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật.
2. Thủ tục và hình thức kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:
“Thủ tục của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là cách thức theo quy định của pháp luật để thực hiện việc kháng cáo, kháng nghị”.Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải được thực hiện bằng những thủ tục, hình thức nhất định theo quy định của pháp luật mới được coi là kháng cáo, kháng nghị hợp lệ.
2.1. Thủ tục và hình thức kháng cáo:
Điều 332 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định chủ thể thực hiện quyền kháng cáo theo hai hình thức là đơn kháng cáo và trình bày kháng cáo trực tiếp với Tòa án. Thẩm quyền tiếp nhận kháng cáo thuộc về cả Tòa án đã xét xử sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm. Đây là điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tiếp nhận kháng cáo dưới hình thức trực tiếp. So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người kháng cáo chỉ có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Việc quy định như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho người kháng cáo, bảo đảm quyền và lợi ích của người kháng cáo được thực hiện.
Đối với hình thức đơn kháng cáo,nội dung của Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 332 gồm: thời gian làm đơn kháng cáo; họ tên, địa chỉ của người kháng cáo, lý do và yêu cầu của người kháng cáo; chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Như đã phân tích về căn cứ của kháng cáo, trong đơn kháng cáo không yêu cầu người kháng cáo đưa ra căn cứ cho việc kháng cáo của mình mà chỉ cần nêu lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo
Đối với hình thức kháng cáo trực tiếp với Tòa án,Tòa án tiếp nhận kháng cáo phải lập biên bản về việc kháng cáo. Biên bản về việc kháng cáo phải tuân thủ quy định về Biên bản theo Điều 133 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Có thể hiểu biên bản về việc kháng cáo gồm có các nội dung như: địa điểm, thời gian lập biên bản, nội dung của kháng cáo, thành phần tham gia lập biên bản, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ. Tuy nhiên Điều 133 chỉ quy định về Biên bản nói chung trong tố tụng hình sự chứ không quy định cụ thể biên bản kháng cáo trong trường hợp kháng cáo trực tiếp tại Tòa án phải có những nội dung gì, có cần phải trình bày lý do kháng cáo hay không?
Người kháng cáo khi nộp đơn kháng cáo hoặc trình bày trực tiếp có thể chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo bằng các chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có).Sau khi Tòa án cấp phúc thẩm đã lập biên bản về việc kháng cáo hoặc nhận được đơn kháng cáo thì phải gửi biên bản hoặc đơn kháng cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm để thực hiện theo quy định chung.
Bên cạnh đó, để “bảo đảm quyền kháng cáo tối đa cho bị cáo” , khoản 1 Điều 332 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp người kháng cáo là bị cáo đang bị tạm giam thì Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo. Tuy nhiên quy định này có điểm hạn chế là bị cáo chỉ được thực hiện quyền kháng cáo bằng đơn kháng cáo mà không được trình bày trực tiếp kháng cáo với Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án hoặc Tòa án cấp phúc thẩm.
Thủ tục kháng cáo được quy định tại Điều 334 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể sau khi nhận được đơn kháng cáo hoặc biên bản về việc kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải vào sổ tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ thì Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 338 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ nhưng nội dung kháng cáo chưa rõ thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay cho người kháng cáo để làm rõ. Trường hợp nội dung đơn kháng cáo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhưng quá thời hạn kháng cáo thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày lý do và xuất trình chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.
Trường hợp người làm đơn kháng cáo không có quyền kháng cáo thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận đơn, Tòa án trả lại đơn và thông báo bằng văn bản cho người làm đơn, VKS cùng cấp. Văn bản thông báo phải ghi rõ lý do của việc trả lại đơn.Việc trả lại đơn có thể bị khiếu nại trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Việc giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Khoản 1 của Điều 334 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tòa án phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo tuy nhiên không có điều luật nào quy định về tính hợp lệ của kháng cáo. Đây là điểm bất cập của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần được hoàn thiện trong thời gian tới.
2.2. Thủ tục và hình thức kháng nghị:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định thủ tục kháng nghị tại một điều luật cụ thể . Tuy nhiên Điều 32 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử quy định: khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo VKS cấp mình để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Theo đó, sau khi kết thúc phiên tòa hoặc sau khi nghiên cứu bản án, quyết định sơ thẩm thì Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án nếu xác định có căn cứ để kháng nghị thì báo cáo đề xuất bằng văn bản với lãnh đạo Viện để xem xét và quyết định việc kháng nghị.
Khác với kháng cáo có thể bằng lời nói hoặc văn bản, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải được thực hiện dưới hình thức văn bản là quyết định kháng nghị. Quyết định kháng nghị tuân theo hình thức và nội dung, đúng thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật là căn cứ phát sinh hiệu lực của kháng nghị. Tại khoản 2 Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nội dung Quyết định kháng nghị của VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp phải ghi rõ lý do và căn cứ kháng nghị, những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định về đánh giá chứng cứ, về vận dụng chính sách pháp luật hoặc về áp dụng thủ tục tố tụng và nêu quan điểm, yêu cầu của VKS về việc giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Hình thức của Quyết định kháng nghị phải theo Mẫu số 15/XP ban hành kèm theo Quyết định số 105/QĐ–VKSTC ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao.
Như vậy, sau khi nhận được kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm để Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện hoạt động thụ lý vụ án và phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, phiên họp trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án (Điều 340 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp để nghiên cứu, trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung trước khi xét xử thì phải chuyển cho VKS cùng cấp (Điều 341 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).