Đối tượng, chủ thể và phạm vi kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự

Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm? Chủ thể và phạm vi kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự?

1. Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không quy định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tại một điều luật nhất định. Căn cứ Điều 330, Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự các bản án, quyết định hình sự thẩm chưa hiệu lực pháp luật. Tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: t xử phúc thẩm việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định thẩm bản án, quyết định thẩm đối với vụ án đó chưa hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm chưa hiệu lực pháp luật.

Theo tác giả Đinh Văn Quế: Bản án hoặc quyết định thẩm chưa hiệu lực pháp luật những bản án, quyết định thẩm còn trong thời hạn kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Sau khi xét xử thẩm, bản án các quyết định thẩm sẽ không hiệu lực pháp luật ngay. Pháp luật tố tụng hình sự sẽ quy định một khoảng thời gian nhất định trước khi bản án, quyết định thẩm hiệu lực để các chủ thể của kháng cáo, kháng nghị thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị của mình. Đối với bản án, quyết định thẩm đã hiệu lực pháp luật sẽ không phải đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nữa sẽ trở thành đối tượng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm

Đối với đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự bản án thẩm, tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định tương đối ràng bản án quyết định bằng văn bản của Tòa án nhân danh nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử một vụ án. Bản án những phán quyết của HĐXX phải tuân thủ những nội dung hình thức theo quy định tại điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đồng thời, tất cả các bản án thẩm chưa hiệu lực pháp luật đều thể đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự

Khoản 2 Điều 330 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể các quyết định thẩm thể bị kháng nghị bao gồm: Quyết định thẩm bị kháng cáo, kháng nghị quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo quyết định khác của Tòa án cấp thẩm theo quy định của Bộ luật này. Căn cứ vào quy định này, thể thấy được đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm quyết định thẩm gồm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án; Quyết định đình chỉ vụ án; Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo Quyết định khác của Tòa án cấp thẩm theo quy định tại Bộ luật này.

Bên cạnh đó, trong số các quyết định của Tòa án cấp thẩm trên luôn tồn tại một số quyết định tính chất đặc thù của nên việc thi hành không thể trì hoãn, kể cả trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị, nghĩa quyết định đó phải hiệu lực ngay kể từ khi ra quyết định, bất luận sau đó quyết định đó bị kháng nghị phúc thẩm hay không, dụ: quyết định chuyển vụ án, quyết định trả hồ điều tra bổ sung, quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng. Từ đó, Bộ luật tố tụng hình sự gián tiếp quy định một số quyết định thẩm không phải đối tượng của kháng nghị phúc thẩm

Tuy nhiên việc luật quy định về đối tượng kháng cáo những quyết định khác của Tòa án cấp thẩm theo quy định của bộ luật nàycòn mang tính khái quát, chưa cụ thể. Xét về nội dung, những quyết định của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp thẩm. Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định một số quyết định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm như sau: quyết định khởi tố vụ án hình sự của HĐXX thẩm(điểm c khoản 1 Điều 161); quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (khoản 2 Điều 453); quyết định của Tòa án về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị tha trước thời hạn điều kiện, hủy quyết định tha trước thời hạn điều kiện (khoản 11 Điều 368)

Theo tác giả Ngô Thanh Xuyên để xác định những quyết định đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải dựa vào các tiêu chí sau

Thứ nhất: Phải các quyết định thẩm liên quan trực tiếp đến việc xử lý vụ án, bị can, bị cáo. Thứ hai: Phải những quyết định thẩm vi phạm pháp luật hoặc sai lầm nếu không kháng nghị thì sẽ không thủ tục tố tụng nào để khắc phục. Thứ ba: Phải những quyết định thẩm nắm về nội dung, hay phải là những quyết định thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án phải gửi ngay cho Viện kiểm sát.” 

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định các bản án, quyết định trong một số trường hợp thể bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Cụ thể tại Điều 363: Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam Tòa án cấp thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải hình phạt hoặc phạt nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Hay như tại khoản 2 Điều 453:Việc kháng cáo, kháng nghị quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được thực hiện như đối với quyết định thẩm quy định tại Bộ luật này

2. Chủ thể và phạm vi kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:

2.1. Chủ thể và phạm vi kháng cáo:

Chủ thể của kháng cáo những chủ thể tham gia tố tụng, quyền lợi bị ảnh hưởng bởi bản án, quyết định của Tòa án hoặc những người đại diện, bào chữa, bảo vệ cho chủ thể quyền lợi bị ảnh hưởng.. Các chủ thể quyền kháng cáo chỉ được thực hiện quyền kháng cáo của mình trong giới hạn nhất định được gọi phạm vi kháng cáo. Phạm vi kháng cáo giới hạn nội dung người kháng cáo được yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xem xét lại quyết định để bảo vệ quyền lợi cho mình, cho người mình bào chữa, bảo vệ hoặc đại diện.

So với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung những người quyền kháng cáo điều chỉnh phạm vi kháng cáo cho phù hợp. Chủ thể phạm vi kháng cáo của các chủ thể được quy định Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Theo đó, người quyền kháng cáo gồm: Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ; người bào chữa của người dưới 18 tuổi, người nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ; người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự người dưới 18 tuổi hoặc người nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, người được Tòa án tuyên không tội

Bị cáo, người đại diện của họ: Bị cáo người đại diện của họ quyền kháng cáo đối với toàn bộ bản án hoặc quyết định thẩm. Theo Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bị cáo người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.Để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đối tượng này, pháp luật đã quy định quyền kháng cáo phạm vi kháng cáo rất rộng cho bị cáo người đại diệncủa họ. Khoản 1, Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định: Bị cáo .... người đại diện của họ quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định thẩm

Ngoài bị cáo, Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định người đại diện của bị cáo cũng chủ thể quyền kháng cáo bản án, quyết định thẩm. Đối với bị cáo nhân,Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định nào về quyền của người đại diện được kháng cáo thay cho bị cáo. Tuy nhiên, theo quy định của Nghị quyết số 05/2005/NQ HĐTP Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ Xét xử phúc thẩmcủa Bộ luật tố tụng hình sự (NQ 05/2005), Bị cáo, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo người chưa thành niên, người nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định thẩm.

Như vậy, trường hợp bị cáo nhân dưới 18 tuổi, nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện của bị cáo quyền kháng cáo. Đối với bị cáo pháp nhân thương mại điểm n Khoản 1 Điều 435 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định , người đại diện theo pháp luật của pháp nhân quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, bị cáo pháp nhân sẽ thực hiện quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án thông qua người đại diện theo pháp luật

Bị hại, người đại diện của họ: Việc ghi nhận quyền kháng cáo của bị hại sự ghi nhận quyền buộc tội của người bị hạiđối với bị cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị hại nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Bị hại, người đại diện của họ quyền kháng cáo bản án, quyết định thẩm. Trường hợp bị hại chết, bị hại người dưới 18 tuổi hoặc người nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện của họ quyền kháng cáo, phạm vi quyền kháng cáo của những người này cũng như quyền của người bị hại

Trong những trường hợp bị hại người dưới 18 tuổi, nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, bị hại đã chết..., khi đó quyền kháng cáo của họ phải được thực hiện thông qua người đại diện của họ. Cụ thể, tại điểm m khoản 2 Điều 62 khoản 1 Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định người đại diện của bị hại quyền kháng cáo bản án thẩm

Theo tác giả Gia Lâm

Phạm vi quyền kháng cáo của người bị hại, đại diện hợp pháp của họ không chỉ giới hạn trong vic yêu cầu tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại còn thể yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm kết tội bị cáo được Tòa án cấp thẩm tuyên tội; áp dụng hình phạt đối với bị cáo được Tòa án cấp thẩm miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo được hưởng án treo không cho bị cáo hưởng án treo hoặc không yêu cầu tăng hình phạt nhưng lại yêu cầu không cho bị cáo hưởng án treo như bản án thẩm đã tuyên v.v.

Người bào chữa: Khoản 1 Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc quan thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định được quan, người thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng bào chữa. Để bảo vệ quyền lợi ích của người bị buộc tội cũng như để pháp luật được áp dụng một cách chính xác nhất, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định người bào chữa một trong các chủ thể quyền kháng cáo trong vụ án hình sự.

Theo khoản 2 Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, những người có thể người bào chữa (từ đó quyền kháng cáo) gồm: luật , người đại diện của người bị buộc tội, bào. chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp . Người bào chữa quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa (khoản 3 Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).Đây là quyền kháng cáo độc lập không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo người đại diện. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành niên, người nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Hơn nữa những đối tượng này những đối tượng chưa các quy định của pháp luật nên khó thể phát hiện ra các sai sót trong bản án thẩm để thực hiện quyền kháng cáo của mình

Mặc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định người bào chữa quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, tuy nhiên trên thực tế, một số Tòa án cấp thẩm lại cách hiểu chưa chính xác dẫn đến áp dụng sai quy định này. dụ: Trong vụ án Nguyễn Luân (sinh ngày 08/12/2001) phạm tội Cướp tài sản xảy ra vào ngày 03/3/2019 tại phường Bình Chiểu, quận thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, tại thời điểm phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi, tuy nhiên tại thời điểm xét xử thẩm bị cáo đã trên 18 tuổi nhưng Tòa án thẩm vẫn trao quyền kháng cáo cho Luật

Cụ thể, tại Bản án thẩm số 32 ngày 20/2/2020 của TAND quận Thủ Đức ghi : Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án. Tòa án cấp thẩm xét xử vụ án vào ngày 20/02/2020 khi bị cáo Luân đã trên 18 tuổi nên Luật bào chữa cho bị cáo không quyền kháng cáo.Do đó, HĐXX phúc thẩm đã không chấp nhận kháng cáo của luật , tòa cấp thẩm trao quyền kháng cáo của bị cáo cho người bào chữa khi bị cáo trên 18 tuổi không đúng quy định

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ: Nguyên đơn dân sự nhân, quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại (khoản 1 Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Bị đơn dân sự nhân, quan, tổ chức pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự người đại diện của họ quyền kháng cáo bản án, quyết định thẩm liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Bản chất của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự khi trong vụ án hình sự để giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự, cụ thể hơn về vấn đề bồi thường thiệt hại.Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã hạn chế quyền kháng cáo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện của họ trong phạm vi phần bản án, quyết định thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại

Tuy nhiên, tương tự như với người đại diện của bị hại, khoản 2 Điều 357 cũng không đề cập đến sở kháng cáo của nguyên đơn dân sự người đại diện của họ. Theo đó nếu nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự trong phạm vi kháng cáo của mình có kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng không lợi cho bị cáo thì không được chấp nhận. Mặc nguyên đơn dân sự người đại diện của họ cũng quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại.

Cụ thể khoản 3 Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định liên quan đến bồi thường thiệt hại. Theo đó nguyên đơn dân sự người đại diện của họ cũng quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại nếu họ nhận thấy phần quyết định của bản án thẩm về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với nguyên đơn dân sự chưa phù hợp, tuy nhiên Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lại không quy định vấn đề này

Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ: Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhân, quan, tổ chức quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự (khoản 1 Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Họ những người không tham gia thực hiện tội phạm hoặc tham gia, nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tòa án phải giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ liên quan đến vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định quyền kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án người đại diện của họ chỉ được thực hiện trong phạm vi đối với phần bản án, quyết định thẩm liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ hoặc của người họ đại diện

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự: Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp (khoản 1 Điều 84 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự thể : Luật ; người đại diện; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp .Bị hại, đương sự người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất sẽ những hạn chế trong việc thực hiện các quyền nghĩa vụ của mình. vậy để đảm bảo cho các chủ thể trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của những người này quyền kháng cáo quyền kháng cáo của họ chỉ giới hạn trong phạm vi liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người họ bảo vệ

Người được Tòa án tuyên không có tội: Người được Tòa án tuyên không có tội là người đã bị Tòa án thẩm xét xử, tuy nhiên tại phiên Tòa nhận thấy hành vi của người đó chưa cấu thành tội phạm nên tuyên người đó không tội. Để kết luận một người phạm tội kết án họ thì phải xem xét đầy đủ 4 cấu thành tội phạm chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan. Nếu cấu thành tội phạm không thỏa mãn thì tòa án phải tuyên bị cáo không phạm tội.

Tuy nhiên, tòa án thể tuyên do không phạm tội các căn cứ để tuyên bị cáo không phạm tội không đúng, dẫn kết kết quả xét xử giống nhau (không tội không bị kết án) nhưng hậu quả pháp sau khi xét xử ngoài tố tụng thể khác nhau. Bởi vậy Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định người đó quyền kháng cáo về căn cứ bản án thẩm đã xác định họ không tội. Đây quyền của bị cáo được Tòa án tuyên không tội thực hiện nhằm khôi phục lại danh dự chứng minh cho sự trong sạch của mình.

dụ: Nguyễn Văn A được Tòa án tuyên không tội do hành vi của Nguyễn Văn A không cấu thành tội phạm. Tức Tòa án vẫn nhận định A thực hiện hành vi nhưng còn thiếu các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi của A được xem không tội. Tuy nhiên, A cho rằng mình không thực hiện hành vi phạm tội nên kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại để chứng cho sự trong sạch của mình

Về quy định này còn bộc lộ một số bất cập. Đó trong trường hợp, người được tuyên không tội chỉ được kháng cáo phần căn cứ Tòa án tuyên họ không tội không quyền kháng cáo các phần khác của bản án thẩm chưa bảo vệ được tối đa quyền lợi cho người bị buộc tội. dụ A bị VKS truy tố về tội Đánh bạc theo quy định tại Điều 321 BLHS 2015, tuy nhiên HĐXX thẩm nhận thấy hành vi của A không cấu thành tội phạm do hành vi đánh bạc bị xử lần đầu và giá trị tiền, hiện vật tham gia đánh bạc dưới 05 triệu nên chưa đến mức cấu thành tội phạm. HĐXX thẩm tuyên A không phạm tội xử phạt hành chính đối với A. Tuy nhiên, A cho rằng mình không hành vi phạm tội không phải nộp phạt hành chính. Nhưng theo quy định của pháp luật thì A không quyền kháng cáo phần xử phạt hành chính chỉ quyền kháng cáo phần căn cứ Tòa án tuyên A không tội chưa bảo đảm quyền kháng cáo bảo vệ tối đa quyền lợi của người bị buộc tội

Khi nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chủ thể phạm vi kháng cáo, thể thấy một số hạn chế, thiếu sót sau

Thứ nhất, quyền kháng cáo của bị can chưa được ghi nhận. Tại khoản 2 Điều 330 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị gồm quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo. Theo Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo người hoặc pháp nhân bị Tòa án đưa ra xét xử. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thẩm quyền ra một trong các quyết định sau: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ điều tra bổ sung, tạm định chỉ hoặc đình chỉ vụ án (Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Tuy nhiên, tại Điều 331 quy định về người quyền kháng cáo khoản 2 Điều 60 quy định về quyền của bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lại không trao quyền kháng cáo cho bị can. Đây chính mâu thuẫn trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bởi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì cách bị cáoxuất hiện từ khi thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thẩm, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì bị can chưa phải bị cáo cũng không quyền kháng cáo quyết định đó, như vậy quyền lợi của bị can sẽ không được đảm bảo.Việc chưa ghi nhận quyền kháng cáo cho bị can khả năng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ khi quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ không căn cứ đúng theo quy định pháp luật.

Mặc quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án đối tượng thể bị kháng cáo. giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc tội phạm được đại , bị can không quyền yêu cầu phục hồi vụ án như các giai đoạn trước đó

Thứ hai, về quyền kháng cáo, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị cáo, bị hại, người đại diện của họ quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định thẩm (khoản 1 Điều 331) chứ không quy định kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định thẩm. Từ đây đặt ra vấn đề bị cáo, bị hại quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định thẩm hay không bởi Điều 61, Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về quyền của bị cáo, bị hại cũng chỉ quyền kháng cáo chứ không quy định kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định của tòa

Tuy còn một số hạn chế nhưng nhìn chung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định khá cụ thể người quyền kháng cáo, quy định này một mặt nhằm đảm bảo quyền của người quyền kháng cáo, một mặt góp phần hạn chế tình trạng oan sai trong tố tụng

2.2. Chủ thể và phạm vi kháng nghị:

Kháng nghị quyền năng pháp được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân, Chủ thể của quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp thẩm Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát đó. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện trong phạm vi là toàn bộ bản án, quyết định thẩm của Tòa án

Theo quy định tại Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thuộc về cả VKS cùng cấp với Tòa án cấp thẩm VKS cấp trên trực tiếp. Điểm c khoản 2 Điều 41 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người thẩm quyền quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS. Cụ thể, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thẩm quyền kháng nghị đối với những bản án, quyết định thẩm chưa hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện.

Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thẩm quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh Tòa án cấp huyện. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện sát nhân dân cấp cao thẩm quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định thẩm chưa hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ủy quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử phúc thẩm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định thẩm chưa hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh.

Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khác với kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ở chỗ chỉ Viện Kiểm sát cùng cấp hoặc Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp với toà án đã ra bản án thẩm mới quyền kháng nghị. Trong khi kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quyền kháng nghị tất cả các bản án đã hiệu lực pháp luật của tòa án các cấp không bị giới hạn 

Việc quy định VKS cấp trên quyền kháng nghị bản án, quyết định thẩm của Tòa án cùng cấp với VKS cấp dưới trực tiếp hoàn toàn hợp . Bởi việc kiểm sát qua hai cấp một mặt giúp phát hiện kịp thời các sai sót về xét xử của Tòa án cấp thẩm yêu cầu Tòa án cấp trên khắc phục, bảo đảm tính hợp pháp căn cứ của bản án, quyết định thẩm trước khi đưa ra thi hành; mặt khác, khắc phục được việc những bản án, quyết định thẩm vi phạm, sai lầm nhưng VKS cấp dưới không phát hiện được hoặc những do khác không kháng nghị

Về phạm vi kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định phạm vi kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khá rộng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, VKS quyền kháng nghị toàn bộ bản án, quyết định thẩm chưa hiệu lực pháp luật

VKS thể kháng nghị theo hướng lợi hoặc theo hướng không lợi cho bị cáo những người tham gia tố tụng khác. Nhưng việc kháng nghị thủ tục phúc thẩm bị ràng buộc bởi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm 

quyền truy tố, thẩm quyền xét xử của tòa án cấp thẩm tòa án cấp phúc thẩm, những bản án thẩm chưa đề cập, chưa quyết định thì không thuộc đối tượng kháng nghị phúc thẩm. Do đó, nếu những tòa án cấp thẩm chưa xét xử thì không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm như vậy cũng không thuộc phạm vi kháng nghị của Viện kiểm sát

Chẳng hạn trong vụ án liên quan đến Quốc Tuấn (Sinh năm: 1987, trú tại huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh) bắn 5 người tử vong Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh xảy ra vào ngày 29/01/2020.Sau khi TAND thành phố Hồ Chí Minh xét xử thẩm, Viện Kiểm sát nhận định các bị cáo vai trò hành vi phạm tội tích cực trong vụ án nhưng mức hình phạt cấp thẩm đã tuyên phạt các bị cáo quá nhẹ so với tính chất, hậu quả của vụ án; về nhân thân các bị cáo không nhiều tình tiết giảm nhẹ. Từ đó, VKSND thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành quyết định kháng nghị một phần bản án thẩm, đề nghị TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với các bị cáo trên. Trong trường hợp này, chủ thể kháng nghị Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án xét xử thẩm và phạm vi kháng nghị một phần của Bản án thẩm

Quy định về chủ thể phạm vi kháng nghị trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bản đã hợp , tuy nhiên, việc quy định Viện kiểm sát quyền kháng nghị việc tăng mức bồi thường thiệt hại tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 còn chưa phù hợp. Về bản chất, VKS chức năng thực hành quyền công tố kiểm sát hoạt động pháp. Thực hành quyền công tố hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.Bởi vậy việc Viện kiểm sát kháng nghị về mức bồi thường, bồi hoàn chưa hợp bởi Viện kiểm sát là chủ thể của quyền công tố không phải chủ thể của tố quyền dân sự trong vụ án hình sự Đương Sự có quyền tự định đoạt về mức bồi thường, bồi hoàn, đồng nghĩa với việc Viện kiểm sát không quyền thỏa thuận với bị cáo hoặc đương sự về mức bồi hoàn trong vụ án hình sự.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com