Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử? Giải pháp giám sát và hạn chế các vi phạm của chủ thể trong thương mại điện tử?
1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử:
Việt Nam đã đang hướng tới đồng bộ văn bản quy phạm pháp luật liên quan thông tin sản phẩm, bao gồm các hướng dẫn về quy trình giao kết thương mại điện tử cũng như các phản ánh về dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử để quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và tránh nảy sinh cạnh tranh không lành mạnh với quy định chi tiết quy chế xác thực tránh rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.
Đồng thời nhà nước cũng cần có các giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử cũng sẽ được luật hóa để việc giải quyết các tranh chấp thông tin sản phẩm trong lĩnh vực thương mại điện tử được đồng bộ với các quy định trực tiếp về thương mại điện tử và các quy định pháp luật liên quan khác. Các văn bản quy phạm pháp luật cũng cần được xem xét đề cập trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chế tài xử lý các doanh nghiệp vi phạm thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử. Nhà nước cũng cần có các quy định cụ thể liên quan cách thức, quy trình, quyền của chủ thể thu thập chứng cứ điện tử để xử lý vi phạm, bao gồm thời gian thông tin được lưu trữ trở thành chứng cứ điện tử trong tương lai tạo môi trường minh bạch giúp người tiêu dùng tiếp cận được nguồn thông tin sản phẩm trên thương mại điện tử.
Các quy định luật pháp liên quan thông tin sản phẩm như nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, cấu thành sản phẩm, thành phần và chất lượng hàng hóa với nhãn mác nhận diện sản phẩm trong Luật sở hữu trí tuệ vẫn còn bất cập khi không thể khái quát và bao hàm được tất cả các trường hợp cần truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm và nhãn mác sản phẩm được sản xuất tại đâu. Như vậy, mặc dù có luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, và Luật sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hóa tiêu dùng và hoạt động tiêu dùng nhưng sự rõ ràng thông tin xuất xứ và nguồn gốc là chưa được bảo đảm.
Theo đó, pháp luật cần nghiên cứu là rõ về xuất xứ và nguồn gốc hàng hóa và phạm vi điều chỉnh đối với các chi tiết của hàng hóa trong thương mại điện tử cũng được thể hiện để người tiêu dùng có thể tiếp cận và đảm bảo quyền lợi của mình được pháp luật bảo vệ. Việc điều chỉnh thông tin sản phẩm đã đăng tải trên thương mại điện tử cũng cần được lưu lại dấu vết tránh việc xóa hoặc ẩn để không chịu trách nhiệm với thông tin sản phẩm đã cung cấp cho người tiêu dùng. Theo đó, Luật an ninh mạng cần sớm được áp dụng rộng rãi vào trong đời sống, đặc biệt là đối với các hoạt động mua bán, trao đổi thông tin người tiêu dùng hoặc thay đổi thông tin sản phẩm trên mạng làm ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng. Một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thông tin sản phẩm trong lĩnh vực thương mại điện tử cho người tiêu dùng có thể tiếp cận đang được cân nhắc bổ sung và hoàn chỉnh.
Điều 12 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 có tên gọi là “Trách nhiệm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng” nhưng thực chất quy định này đề cập đến nghĩa vụ cung cấp thông tin chứ không phải về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Đối với quy định về nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa tại Khoản 1 Điều 9 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, nghĩa vụ này dường như cần xem xét loại bỏ và nên coi nó là quyền của người tiêu dùng, xác định rõ ràng đây là nghĩa vụ của các bên tiến hành kinh doanh sản phẩm, dịch vụ trong thương mại điện tử. Để sửa đổi phù hợp với việc loại bỏ trách nhiệm kiểm tra hàng hóa của người tiêu dùng, điều luật này nên được sửa đổi thành Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, nếu có tranh chấp phát sinh với người tiêu dùng liên quan đến nghĩa vụ thông tin, quy định này cũng sẽ giải quyết vấn đề xác định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh bản thân đã thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ thông tin sản phẩm cho người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử. Việc đưa ra bằng chứng để chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ thông tin sản phẩm cho người tiêu dùng cùng giao kết hợp đồng trong thương mại điện tử phải được xem là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Đây cũng là một giải pháp đã được ghi nhận trong Bộ luật Tiêu dùng mới của Pháp ở Điều 111–5. Luật Việt Nam cũng nên thừa nhận giải pháp tương tự.
Do vậy, giải pháp của Việt Nam hướng tới đồng bộ văn bản quy phạm pháp luật liên quan thông tin sản phẩm với luật pháp quốc tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cần được xem xét đề cập trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chế tài xử lý các doanh nghiệp vi phạm thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử.
Đặc biệt, Việt Nam hiện đang thiếu các quy định cụ thể liên quan cách thức thu thập chứng cứ điện tử với quy định các quy trình và quyền của chủ thể thu thập lưu trữ có thời hạn để là chứng cứ điện tử trong tương lai. Hiện nay Bộ Công Thương đã công bố trên cổng thông tin Quản lý hoạt động thương mại điện tử danh sách các website thương mại điện tử bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nhưng có thể làm nảy sinh việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi doanh nghiệp bị phản ánh không trung thực, không quy định chi tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh không lành mạnh
Chế tài đối với việc vi phạm quy định về cung cấp thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử cho người tiêu dùng cũng cần được quy định chặt chẽ và mang tính nghiêm khắc hơn nữa. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm nghĩa vụ thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại và Luật Giao dịch điện tử. Hoạt động thương mại điện tử còn chịu sự điều chỉnh của một số luật khác như Luật Công nghệ thông tin 2006; Luật Viễn thông 2009; Bộ luật Hình sự 2015; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010; Luật Quảng cáo 2012; Luật Đầu tư 2014; Luật Doanh nghiệp 2020, Chỉ thị số 30–CT/TW/2019, sẽ phải chịu chế tài dân sự khi thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử được người tiêu dùng yêu cầu xác minh hoặc vô hiệu hợp đồng hay hủy hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có quyền áp dụng chế thi hành chính theo quy định của Bộ Luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ với các nghĩa vụ cung cấp thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử với quyền lợi người tiêu dùng (Nghị định số 124/2015/NĐ CP).
Tuy nhiên, các mức phạt này cần được nâng cao hơn nữa sao cho phù hợp với quy mô kinh doanh của từng doanh nghiệp hoặc mức độ tác động của hành vi vi phạm tới toàn bộ thị trường tiêu dùng Việt Nam. Các mức phạt cần được xem xét nâng lên theo mức độ tăng trưởng của nền kinh tế và tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm, ngoài các hình phạt thông thường, các nhà làm luật cần nghiên cứu xác định mức độ trách nhiệm hình sự mới áp dụng đối với các hành vi vi phạm do thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử bị sai lệch gây ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng, khi cần thiết cần xem xét hình sự hóa một số hành vi có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội (đơn cử như khẩu trang y tế 3 lớp phòng chống dịch được chào bán trên thương mại điện tử không đúng làm cho khẩu trang không phòng được cho người tiêu dùng và gây ảnh hưởng đến kết quả phòng chống dịch bệnh).
Đối với vướng mắc về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm trong thương mại điện tử và việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử, một số giải pháp được đưa ra như sau:
Một là, xác định rõ nguồn gốc sản phẩm cả xuất khẩu và tiêu dùng nội địa trong việc xây dựng và ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể việc giao kết và thực hiện cung cấp thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử với hợp đồng thương mại điện tử. Để đảm bảo tính nhất quán của thông tin nguồn gốc sản phẩm trong hợp đồng và đảm bảo tính công bằng trong quan hệ giữa hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng nội địa, cần xây dựng những quy định cụ thể về tỷ lệ nội địa và bảng quy chuẩn xuất xứ hàng hóa “sản xuất tại Việt Nam”.
Hai là, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về cung cấp thông tin sản phẩm trên nhãn mác xuất xứ hàng khi giao dịch thương mại điện tử. Việc rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cung cấp thông tin sản phẩm trong khi giao dịch thương mại điện tử.
Thông qua rà soát, hệ thống hóa, có thể phát hiện được những quy định, những VBQPPL có mâu thuẫn, chồng chéo, lạc hậu, không còn phù hợp với định hướng phát triển với các thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử, đặc biệt liên quan nguồn gốc xuất xứ và nhãn hiệu, cần được thể hiện trong hợp đồng thương mại điện tử; từ đó kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, loại bỏ chúng hoặc ban hành văn bản mới, tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật về thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử hoàn thiện, thống nhất, đồng bộ, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, đáp ứng nhu cầu có một môi trường pháp lý lành mạnh, an toàn với thông tin sản phẩm trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử.
Đối với các chủ thể lựa chọn giao kết hợp đồng thương mại điện tử, việc rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật còn giúp cho họ có điều kiện nắm bắt dễ dàng, nhanh chóng những quy định của pháp luật hiện hành về thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử để áp dụng vào từng trường hợp cụ thể, tránh sự lúng túng khi gặp phải những quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo.
Nhờ đó, tranh chấp về thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử khó xảy ra, các vụ việc nếu xảy ra được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Có như vậy, các chủ thể mới mạnh dạn tham gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử với các thông tin sản phẩm mà họ được cung cấp trong thương mại điện tử. Đặc biệt để bảo vệ người tiêu dùng được nhận diện đúng các sản phẩm như đã thông tin trong thương mại điện tử, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 cũng cần xem xét sửa đổi bổ sung Điều 28 theo hướng người tiêu dùng có quyền quyết định kiểm tra đối chiếu các sản phẩm hiện trường kho bãi với thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử. người tiêu dùng được yêu cầu tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong thương mại điện tử xuất trình các tài liệu, văn bản liên quan đến khiếu nại về thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử và sản phẩm thực nhận, đảm bảo tốt hơn nữa quyền của người tiêu dùng được tiếp cận các thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử đồng thời giám sát và hạn chế các vi phạm của chủ thể kinh doanh sản phẩm tiêu dùng trên sàn thương mại điện tử.
2. Giải pháp giám sát và hạn chế các vi phạm của chủ thể trong thương mại điện tử:
Đề nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thông tin sản phẩm cho người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử, ngoài việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh, các vấn đề liên quan đến việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật cũng hết sức quan trọng đảm bảo minh bạch thông tin xuất xứ sản phẩm cũng như nguồn gốc sản phẩm khi giao dịch thương mại điện tử, đồng thời hạn chế các vi phạm của chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực này. Một số giải pháp giám sát và hạn chế các vi phạm của chủ thể kinh doanh thương mại điện tử có thể cần được cân nhắc xem xét như sau:
Đối với hệ thống quản lý thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử để đảm bảo thực thi pháp luật, Nhà nước cần nghiên cứu để xây dựng hệ thống quản lý giám sát mang tính thống nhất, đồng bộ trong giao dịch thương mại điện tử.
Đối với việc triển khai thúc đẩy minh bạch thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử cho người tiêu dùng có thể kết hợp, và có cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan liên quan thông tin sản phẩm để đảm bảo thực thi pháp luật, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và khả năng thực thi hiệu quả công tác thông tin sản phẩm với xuất xứ nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa trong thương mại điện tử theo hướng thống nhất, đồng bộ và phù hợp trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phát triển khoa học, công nghệ và xu hướng phát triển giao dịch thương mại 4.0. Công khai, minh bạch các thông tin liên quan đến tiêu chuẩn và nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, thành phần cấu thành sản phẩm và nhận diện hàng hóa.
– Đối với công tác giải quyết tranh chấp liên quan thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử còn chưa hiệu quả như hiện nay, Nhà nước cần xây dựng một thiết chế giải quyết tranh chấp có tính ứng dụng cao trong thời đại 4.0, đặc biệt trong bối cảnh bùng nổ của thương mại điện tử khi dịch COVID xảy ra
Đối với công tác xây dựng pháp luật về thông tin sản phẩm, người tiêu dùng và thương mại điện tử, nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan quản lý nhà nước, tổng kết thực hiện các bộ Luật liên quan thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với các thông tin nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, nhãn hiệu và thành phần sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử, trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung Luật cho phù hợp với yêu cầu quản lý của nhà nước và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Đối với công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật liên quan đến người tiêu dùng trong thương mại điện tử cần được nhận thông tin sản phẩm một cách minh bạch và đúng, các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật công khai, minh bạch và truyền thông rộng rãi, đầy đủ bằng nhiều hình thức phù hợp đến các bên tham gia thương mại trong giao dịch trên sàn thương mại điện tử về chất lượng hàng hóa, dịch vụ và cảnh báo những nguy cơ về chất lượng cũng như nguồn gốc xuất xứ sản phẩm.
Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm liên quan thông tin sản phẩm về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, nhãn hiệu và nhận diện sản phẩm, các văn bản quy phạm pháp luật cần chỉ rõ trách nhiệm phân tích, kiểm định, đánh giá, kiểm soát của các cơ quan thực thi pháp luật, không để lưu thông trên thương mại điện tử những hàng hóa, dịch vụ có thông tin không chính xác và không rõ ràng.
Quy định việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu, khiếu nại về thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử của người tiêu dùng theo hướng thủ tục đơn giản, thuận tiện để người tiêu dùng và doanh nghiệp có thể giải quyết tranh chấp về thông tin sản phẩm qua các kênh truyền thông như phương thức trọng tài và tòa án; Tạo điều kiện để các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ tính minh bạch thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử được hình thành, phát triển và hoạt động có hiệu quả và kịp thời có cơ chế, chính sách để xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm thông tin sai lệch về sản phẩm. Khuyến khích các doanh nghiệp có sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt, giá thành hợp lý, có uy tín, thương hiệu trên thị trường cung cấp thông tin sản phẩm trong thương mại điện tử để người tiêu dùng có khả năng tiếp cận.
Trong bối cảnh hội nhập ASEAN và quốc tế sâu rộng như hiện nay, liên quan thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử thì nhà nước cần xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp nội dung thông tin sản phẩm trên thương mại điện tử xuyên biên giới, đặc biệt liên quan xuất xứ và nguồn gốc hàng hóa nhằm tăng cường hỗ trợ, hợp tác giải quyết các tranh chấp liên quan thông tin sản phẩm trong giao dịch thương mại điện tử, thúc đẩy sự tin tưởng của người tiêu dùng các nước đối với sản phẩm, dịch vụ, môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.