Hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu? Xử lý hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam?
1. Hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu:
Hậu quả có thể được hiểu là “kết quả không hay về sau” . Như vậy, hậu quả trước hết phải là một kết quả và kết quả đó phải xảy ra từ một sự kiện, một hành vì nào đó và hậu quả – hành vi hay sự kiện đó phải có mối quan hệ nhân quả với nhau .
Trong khoa học pháp lý, hậu quả dùng để chỉ những hành vi, sự kiện gây ra bất lợi cho cá nhân hay pháp nhân. Người gây ra hậu quả phải chịu hậu quả pháp lý nhất định nhưng phải được các nhà làm luật xác định hay dữ liệu mới làm phát sinh hậu quả pháp lý. Một hành vi trái pháp luật có thể gánh chịu hậu quả pháp lý của một ngành luật hoặc nhiều ngành luật khác nhau. Ví dụ, như hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng thì hậu quả có thể hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự nhưng nếu hành vi lừa dối này đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của ngành luật hình sự thì hậu quả có thể vừa xử lý theo pháp luật hình sự, vừa xử lý theo pháp luật dân sự.
Mặc dù thuật ngữ hậu quả pháp lý được sử dụng rất rộng rãi nhưng chưa có một ngành luật nào đưa ra khái niệm về hậu quả pháp lý cụ thể mà chỉ đi sâu vào nội dung của hậu quả pháp lý.
Như đã biết, “hợp đồng là căn cứ pháp lý phổ biến làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng bị vô hiệu có thể vì nhiều lý do khác nhau, tức là do vi phạm các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực khác nhau. Mỗi loại điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có đặc trưng riêng. Chính vì vậy, về nguyên tắc, bên cạnh hậu quả pháp lý chung khi hợp đồng vô hiệu (như hợp đồng không có hiệu lực kể từ ngày ký, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận...) còn có những hậu quả pháp lý đặc thù, chỉ đặc trưng cho loại hợp đồng vô hiệu đó (ví dụ bồi thường thiệt hại) và đương nhiên tính đặc thù này phải được thể hiện trong pháp luật. Rõ ràng, hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối không thể hoàn toàn giống với hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu vì những lý do khác. Trong khi đó, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và cả BLDS năm 2015 điều quy định hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu chung cho tất cả các trường hợp.
“Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết trái với quy định của pháp luật. Khi các nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không có hiệu lực thực hiện” . Có thể thấy rằng, hợp đồng cũng là một loại giao dịch và trong điều kiện luật không có quy định riêng về hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu, do đó, hợp đồng tuân theo các quy định chung về hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu trong trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Bởi vậy, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, theo đó, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định như sau:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Như vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2, Điều 131 của BLDS năm 2015 thì khi hợp đồng vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Điều đó có nghĩa là nếu việc ký kết hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền và nghĩa vụ thì khi hợp đồng vô hiệu, những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý, không ràng buộc các bên. Ví dụ, hai bên xác lập hợp đồng mua nhà nếu hợp đồng này vô hiệu thì bên bán không phải giao nhà, bên mua không có quyền được nhận nhà như thỏa thuận trong hợp đồng và không có nghĩa vụ giao tiền cho bên bán nhà.
Khi hợp đồng bị vô hiệu, nếu các bên chưa thực hiện hợp đồng thì không được thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã được thực hiện thì sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu của hợp đồng, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp các bên đã thực hiện hợp đồng, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì đối tượng của hợp đồng, giấy tờ... mà các bên trao cho nhau theo thỏa thuận trong hợp đồng đã có những biến động, không còn tồn tại hoặc có những biến đổi không thể “khôi phục lại tình trạng ban đầu” để hoàn trả.
Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2, Điều 131 của BLDS năm 2015 thì sẽ xác định giá trị của hiện vật đó và hoàn trả bằng tiền. Việc BLDS năm 2015 quy định “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” là quy định có tính chất nguyên tắc chung, phải hiểu nó một cách linh hoạt chứ không nên áp dụng một cách máy móc như trước đây, việc xử lý hậu quả của hợp đồng phải phù hợp với tính chất của hợp đồng.
Ví dụ: hợp đồng thuê nhà giữa ông X và ông Y theo thỏa thuận thời hạn thuê là 5 năm, giá thuê mỗi năm 100.000.000đ, đưa trước một năm, thời hạn giao tiền là 10 ngày kể từ ngày nhận được tài sản thuê. Hai bên đã thực hiện hợp đồng, tức là bên thuê đã nhận nhà, bên cho thuê đã nhận số tiền 100.000.000đ tiền thuê nhà của một năm. Hợp đồng thực hiện được 6 tháng, bên thuê đang sử dụng tài sản thuê để làm địa điểm kinh doanh thì hợp đồng thuê nhà này bị tuyên bố vô hiệu do lừa dối. Trong trường hợp này, nếu hiểu và áp dụng một cách máy móc quy định này sẽ là bên thuê phải trả lại tài sản thuế là căn nhà, bên cho thuê phải trả lại số tiền 100.000.000đ đã nhận.
Tuy nhiên, trong trường hợp này không thể xử lý buộc bên cho thuê trả lại 100.000.000đ để nhận lại tài sản, bên thuê trả lại nhà và nhận lại 100.000.000đ, mà cần xử lý theo hướng tuyên bố hợp đồng thuê nhà vô hiệu do lừa dối, bên thuê trả lại tài sản cho bên cho thuê, còn bên cho thuê chỉ trả lại cho bên thuê số tiền là 50.000.000đ. Sẽ có một vấn đề đặt ra: tại sao quy định của pháp luật dân sự hiện hành là khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận mà tại sao bên thuê đã trả lại tài sản mà bên cho thuê chỉ trả lại cho bên thuê số tiền là 50.000.000đ không đúng với quy định của pháp luật?.
Để giải quyết vấn đề này, về lý thuyết, rõ ràng bên cho thuê đã giao tài sản cho bên thuê để khai thác công dụng của tài sản (cụ thể là sử dụng căn nhà để làm địa điểm kinh doanh) là đã đồng ý để bên thuế tiêu dùng một phần giá trị của tài sản, bên thuê đã sử dụng 06 tháng, đã tiêu dùng phần giá trị này. Do đó, khi hợp đồng thuê này bị tuyên bố vô hiệu thì bên thuê không thể hoàn trả lại cho bên thuê phần giá trị mà bên thuê đã khai thác, sử dụng tài sản thuế, phần đó tương đương giá trị là 50.000.000đ.
Như vậy, 50.000.000đ này là phần bên thuê đã nhận, đã tiêu dùng và không thể trả lại cho bên cho thuê nên hoàn trả giá trị bằng tiền cho bên cho thuê. Dựa trên cơ sở lý luận này, với những diễn biến thực tế của vụ án nên chỉ buộc bên cho thuê trả lại cho bên thuê số tiền 50.000.000đ chứ không phải 100.000.000đ là phù hợp. Nếu trường hợp, hai bên vừa bắt đầu thực hiện hợp đồng (tức là bên thuê vừa nhận tài sản thuê, bên cho thuê vừa nhận số tiền 100.000.000đ) thì hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do lừa dối thì sẽ thực hiện đúng như quy định là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu chỉ phát sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trên cơ sở một quyết định, bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Tóm lại, “khi Tòa án tuyển một hợp đồng vô hiệu, thì hậu quả pháp lý: Hợp đồng bị coi là chưa từng bao giờ tồn tại, các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” .
2. Xử lý hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu:
BLDS năm 2005 từng quy định: “...tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật ...” thì BLDS năm 2015 đã bỏ quy định tịch thu tài sản giao dịch, bỏ việc tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được, thay vào đó tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định “bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Từ quy định này có thể hiểu là khi giải quyết hợp đồng vô hiệu không được tịch thu tài sản giao dịch, không tịch thu hoa lợi, lợi tức từ hợp đồng vô hiệu, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của hợp đồng bên nào sẽ được hưởng phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định.
Nghĩa là, bên đã nhận đối tượng của hợp đồng, trong thời gian hợp đồng chưa bị tuyên bố vô hiệu, thời gian chưa giao trả tài sản mà phát sinh hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của hợp đồng thì bên đang quản lý, chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó sẽ được hưởng, nếu là người ngay tình. Tuy nhiên, quy định này có chưa hợp lý, bởi lẽ, khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định “bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức ...” là đặt trong mối quan hệ giữa người thu hoa lợi, lợi tức với hoa lợi, lợi tức chứ không phải trong mối quan hệ chiếm hữu vật đã sinh ra hoa lợi, lợi tức, để xét có ngay tình hay không là rất khó hiểu. Thế nào là ngay tình và không ngay tình trong việc thu hoa lợi? Nếu xét trong mối quan hệ giữa người thu hoa lợi và hoa lợi thì người này luôn luôn là ngay tình không thể không ngay tình. Tại Điều 184 của BLDS năm 2015 có quy định:
“1. Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh.
2. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền.
3. Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan. Trên thực tế, hoa lợi có thể phát sinh từ đối tượng của hợp đồng bị vô hiệu (mua vườn cây ăn trái, cây ra hoa đậu quả, mua gia súc đẻ trứng, đẻ con …).”
Vật mới được hình thành này là sự phát triển tự nhiên có mối quan hệ hữu cơ với vật ban đầu, nên thông thường, chủ sở hữu vật ban đầu sẽ là chủ sở hữu của hoa lợi đó nếu không có thỏa thuận khác. Nhưng cũng có thể trong thời gian hợp đồng chưa bị tuyên bố vô hiệu thì người đang chiếm hữu, quản lý đối tượng của hợp đồng thực hiện một hợp đồng cho thuê đối với đối tượng này và thu được một khoản tiền cho thuê. Nếu cho rằng việc cho thuê là không ngay tình để cho rằng khoản tiền nhận được từ việc cho thuê là không ngay tình thì cũng không đúng với quy định tại khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015, vì việc không ngay tình của việc cho thuê thì đó là không ngay tình đối với hợp đồng cho thuê sẽ được xử lý trong mối quan hệ này chứ không thuộc phạm vi không ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức.
Do đó, quy định “bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó” phải được hiểu trong mối quan hệ hình thành, tạo ra vật chiếm hữu đã sinh ra hoa lợi, lợi tức đó. Vì vậy, nếu ngay tình khi thực hiện hợp đồng bị xác định vô hiệu thì việc chiếm hữu vật là ngay tình, khi vật phát sinh hoa lợi, lợi tức việc chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó mới ngay tình. Còn nếu khi thực hiện hợp đồng không ngay tình (ví dụ, thực hiện thủ đoạn lừa dối để giao kết hợp đồng) thì việc chiếm hữu đối tượng của hợp đồng là không ngay tình, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của hợp đồng mà người này đang chiếm hữu cũng không ngay tình.
Trong trường hợp này, bên không ngay tình khi xác lập hợp đồng, việc chiếm hữu vật của chủ thể này cũng không ngay tình, sau đó, hợp đồng này bị tuyên bố vô hiệu do lừa dối thì bên không ngay tình ngoài việc phải hoàn trả những gì đã nhận còn phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó. Tuy khoản 3, Điều 131 của BLDS năm 2015 không quy định nhưng nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nếu Tòa án chỉ phán quyết dừng lại ở việc bên không ngay tình phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó thì có thể sẽ không đúng, việc xem xét giải quyết vụ án chưa toàn diện.
Bởi lẽ, để có được hoa lợi đó, phần giá trị lớn hơn từ khi hoa lợi đó được sản sinh ra có phần chi phí, công sức của người thu hoa lợi. Do đó, khi Tòa án buộc họ trả lại hoa lợi cần xem xét công sức, chi phí mà họ đã bỏ ra để buộc bên được nhận hoa lợi này thanh toán công sức, chi phí này cho họ nếu họ có yêu cầu.
Khi hợp đồng bị vô hiệu, không chỉ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận mà còn xét đến yếu tố lỗi, bên có lỗi để hợp đồng vô hiệu mà gây thiệt hại còn phải bồi thường. Bên có lỗi được đề cập trong trường hợp này là bên có những hành vi (hành động hoặc không hành động) làm cho hợp đồng bị vô hiệu. Trên thực tế, có nhiều trường hợp hợp đồng bị vô hiệu là do lỗi của một bên cũng có trường hợp do lỗi của cả hai bên nhưng trong trường hợp hợp đồng vô hiệu do là lừa dối thường là lỗi của một bên hoặc bên thứ 3 làm cho hợp đồng bị vô hiệu.
Để xác định và đánh giá đúng mức độ lỗi thì khi giải quyết tranh chấp Tòa án phải thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh mức độ lỗi của bên có lỗi. Nhưng trong thực tiễn xét xử cho thấy, có những Hội đồng xét xử chưa chú ý đúng mức vấn đề này, thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, xác định mức độ lỗi không chính xác. Những sai sót này thường dẫn đến hậu quả bản án, quyết định bị sửa, hủy để giải quyết lại.