Khái niệm hòa giải gắn với Tòa án là gì? Đặc điểm của hòa giải gắn với Tòa án? Điểm khác biệt so với hòa giải trong tố tụng và các hình thức hòa giải ngoài tố tụng khác?
1. Khái niệm hòa giải gắn với Tòa án là gì?
Có nhiều định nghĩa về hòa giải được áp dụng bởi các quốc gia khác nhau, mặc dù các định nghĩa này cũng có những điểm tương đồng. Hòa giải có thể được định nghĩa một cách chung nhất là một quy trình có trật tự, theo đó, hai hoặc nhiều bên tham gia tranh chấp tự mình, trên cơ sở tự nguyện, đạt được thỏa thuận thống nhất giải quyết tranh chấp của họ với sự hỗ trợ của Hòa giải viên. Hòa giải khác biệt với phương thức trọng tài và tố tụng Tòa án. Không giống như trọng tài hoặc tố tụng Tòa án, Hòa giải viên không có quyền lực pháp lý để buộc các bên tranh chấp chấp nhận quyết định của mình mà chỉ dựa vào sự thuyết phục để các bên đạt được sự đồng thuận.
Hòa giải cũng có thể được phân biệt với các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khác, chẳng hạn như trung gian, trong đó một bên thứ ba trung lập có vai trò tích cực hơn Hòa giải viên trong việc cung cấp các giải pháp cho các bên để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, như được phân tích dưới đây, trung gian và hòa giải thường có thể giống nhau trên thực tế, tùy thuộc vào từng bối cảnh. Theo thông lệ chung của các quốc gia, quá trình hòa giải có thể được khởi xướng bởi các bên, theo đề nghị hoặc quyết định của Tòa án hoặc theo quy định của pháp luật.
Hòa giải gắn với Tòa án là một loại hòa giải, và thường chỉ bất kỳ quá trình hòa giải nào được thực hiện dưới sự hỗ trợ của Tòa án, thường là đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án. Đây là một thủ tục trước khi xét xử, được thực hiện đối với các tranh chấp có thể hòa giải được khởi kiện tại Tòa án, với sự hỗ trợ của Hòa giải viên. Trong phạm vi hòa giải gắn với Tòa án, trên thế giới không có một định nghĩa chung giải thích thế nào là “gắn với Tòa án” về mức độ hoặc loại Tòa án tham gia. Về vấn đề này, khi xem xét mối quan hệ giữa thủ tục tố tụng tại Tòa án và hòa giải, có thể phân thành ba loại hòa giải:
(1) Hòa giải tự hoàn toàn độc lập với các thủ tục tố tụng, và thường diễn ra mà không liên quan đến bất kỳ thủ tục tố tụng nào của Tòa án; (2) Hòa giải gắn với Tòa án được khởi xướng bởi Tòa án, nhưng sau đó được tiến hành mà không có sự tham gia của Tòa án; và (3) Hòa giải trong tố tụng được gắn chặt hơn với Tòa án và hoạt động với tư cách là một tổ chức có trụ sở và nhân sự.
Nếu phân biệt các loại hòa giải như trên, thì hòa giải gắn với Tòa án của Việt Nam gần giống nhất với hòa giải trong tố tụng, hay còn gọi là hòa giải bởi thẩm phán. Đây là quá trình, trong đó, thẩm phán nỗ lực hòa giải tranh chấp trước khi đưa vụ án ra xét xử. Cơ chế này thực tế đã thể hiện rõ trong Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính của Việt Nam. Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.” Trong trường hợp này, thẩm phán là người tiến hành hòa giải.
Không phải tất cả các quốc gia đều thống nhất định nghĩa về hòa giải gắn với Tòa án và hòa giải trong tố tụng như trên. Tại một số quốc gia, trong hòa giải gắn với Tòa án, các thẩm phán và cán bộ tư pháp tích cực đóng vai trò là Hòa giải viên cho các bên đương sự sau khi đương sự đệ đơn kiện lên Tòa án. Ở các quốc gia khác, các thẩm phán không tiến hành hòa giải. Trong khi không thể có được định nghĩa thống nhất về hòa giải gắn với Tòa án, điều quan trọng là phải được xác định một cách nhất quán về hòa giải gắn với Tòa án trong một hệ thống pháp luật của một quốc gia nhất định.
Trong nỗ lực xác định kinh nghiệm quốc tế tốt nhất về hòa giải và đối thoại gắn với Tòa án, việc đánh giá vai trò khác nhau của Tòa án và thẩm phán trong quá trình hòa giải là cần thiết. Trước khi phân tích đầy đủ các vấn đề liên quan đến hòa giải và đối thoại gắn với Tòa án, tác giả sẽ giới thiệu một số mô hình điển hình.
Năm 2013, Việt Nam ban hành Hiến pháp mới, trong đó quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Theo chức năng, nhiệm vụ nêu trên của Tòa án nhân dân, cùng với những sửa đổi, bổ sung của các đạo luật mới, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã được ban hành với thẩm quyền của Tòa án được mở rộng hơn trước đây, ví dụ như như bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án – Điều 27, thẩm quyền giải quyết đối với đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai – Điều 26, yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định pháp luật hôn nhân và gia đình – Điều 29, Điều 43...
Trên thực tế, các tranh chấp, khiếu kiện mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết ngày càng tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp. Trong khi đó, số lượng biên chế của Tòa án hiện chưa đáp ứng được yêu cầu so với cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của các Tòa án và đang theo hướng giảm theo chủ trương của Đảng như đã nói ở trên.
Thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và 09 Tòa án nhân dân cấp huyện của thành phố (thời gian từ tháng 3 đến hết tháng 8 năm 2018). Sau 6 tháng triển khai thực hiện, hoạt động thí điểm đã thu được những thành công nhất định, tỷ lệ hòa giải, đối thoại thành đạt 76,2%.
Sau thành công thí điểm tại Hải Phòng, tiếp tục thực hiện Kết luận của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao mở rộng triển khai thí điểm tại 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (thời gian thí điểm từ tháng 11–2018 đến tháng 9–2019). Tại các địa phương này, đã thành lập Ban Chỉ đạo thí điểm, tổ chức các Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; đào tạo Hòa giải viên, Đối thoại viên; tiến hành hòa giải, đối thoại tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính và đã thu được những kết quả tích cực (qua 3 tháng đầu tiên triển khai đã hòa giải thành, đối thoại thành được 15.016 vụ, đạt tỷ lệ 74,08%), được cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương đánh giá là mô hình mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong đời sống, xã hội, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Kết quả thí điểm đã khẳng định những giá trị mà phương thức giải quyết tranh chấp này mang lại, cụ thể:
Thứ nhất, phát huy tối đa tự do ý chí và khả năng tự định đoạt của các chủ thể tham gia với sự hỗ trợ chuyên nghiệp của các Hòa giải viên giúp cho các bên trao đổi, đàm phán với nhau, gợi ý về các giải pháp phù hợp để giải quyết bất đồng.
Thứ hai, đáp ứng được mong muốn của các bên tranh chấp, đó là: thời gian giải quyết nhanh chóng, đặc biệt là bất đồng được giải quyết một cách kín đáo và bảo mật thông tin, tiêu chí mà phương thức giải quyết bằng tố tụng tại Tòa án không thể có được. Thông qua hòa giải gắn với Tòa án các bên tìm được sự thiện chí, thống nhất để hài hòa lợi ích đôi bên, không bị rơi vào tâm lý thắng thua như khi giải quyết tranh chấp thông qua tố tụng tại Tòa án. Nhờ thế mà mối quan hệ hợp tác giữa các bên được duy trì tốt hơn.
Thứ ba, hòa giải gắn với Tòa án được tiến hành tại Tòa án tạo sự tin tưởng cho các chủ thể trong quá trình hòa giải, đối thoại, đồng thời là thiết chế quan trọng để hỗ trợ cho các thỏa thuận được thực thi.
Thứ tư, kết quả giải quyết của phương thức này được pháp luật thừa nhận.
Thứ năm, kết quả giải quyết tranh chấp bằng hòa giải gắn với Tòa án qua quá trình thương lượng, có sự thỏa thuận, nhất trí của các bên nên khả thi và được các bên tôn trọng, tuân theo.
Thứ sáu, hòa giải gắn với Tòa án thành công sẽ không cần phải thông qua con đường tố tụng tại Tòa án, giảm tải công việc và áp lực đối với công tác xét xử của Tòa án; hạn chế khiếu kiện kéo dài qua nhiều cấp; tiết kiệm được chi phí, công sức, thời gian của Nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ bảy, giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải gắn với Tòa án sẽ ngăn ngừa được những tiêu cực, tình trạng “chạy án” có thể phát sinh; góp phần xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ Thẩm phán thanh liêm.
Thứ tám, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải gắn với Tòa án là một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp với xu thế của thời đại, thúc đẩy giao lưu dân sự, kinh tế phát triển; nâng cao hình ảnh, uy tín quốc gia trên bình diện quốc tế.
Thứ chín, đối với các khiếu kiện hành chính, theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức chỉ được ủy quyền cho cấp phó tham gia đối thoại. Trong bối cảnh các khiếu kiện hành chính ngày càng nhiều, phức tạp, xảy ra trên các lĩnh vực khác nhau, việc tổ chức đối thoại gặp nhiều khó khăn do người bị kiện và người được ủy quyền vắng mặt. Việc tổ chức đối thoại linh hoạt theo mô hình hòa giải, đối thoại gắn với Tòa án sẽ khắc phục được bất cập, nâng cao hiệu quả trong giải quyết các khiếu kiện hành chính.
Thứ mười, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải gắn với Tòa án là một phương thức ít tốn kém. Chi phí trung bình cho 01 vụ việc hòa giải thành chỉ chiếm 22% chi phí cho xét xử sơ thẩm 01 vụ việc dân sự, hành chính. Nếu vụ việc phải qua xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm thì chi phí xét xử còn có thể tăng lên gấp hai, ba lần so với chi phí xét xử sơ thẩm.
Như vậy, có thể hiểu, hòa giải gắn với Tòa án là hoạt động tự nguyện thỏa thuận và thương lượng giữa các đương sự về việc giải quyết tranh chấp trong vụ án dân sự với sự giúp đỡ của bên thứ ba là Tòa án, nhằm hỗ trợ các bên giải quyết mâu thuẫn một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất nhưng vẫn đảm bảo chấp hành quy định pháp luật. Một cách chung nhất, hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật này.
2. Đặc điểm của hòa giải gắn với Tòa án:
Những đặc điểm chính của hòa giải gắn với Tòa án có thể kể đến chính là hai nhân tố đổi mới quan trọng: (1) chủ thể tiến hành hòa giải và (2) trình tự, thủ tục hòa giải, cụ thể như dưới đây:
Một là, phạm vi và đối tượng áp dụng
Việc hòa giải gắn với Tòa án được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động (sau đây gọi tắt là tranh chấp dân sự) được tiến hành trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết trừ những tranh chấp, khiếu kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được.
Hai là, chủ thể tiến hành hòa giải
Hòa giải viên được lựa chọn từ những Thẩm phán đã về hưu; những người đã từng là Kiểm sát viên, Điều tra viên, chuyên viên pháp lý trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Thi hành án, các cơ quan Đảng và nhà nước khác thuộc khối nội chính; luật sư, luật gia, Hội thẩm nhân dân hoặc những người khác có kiến thức pháp luật, có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, kinh nghiệm trong hòa giải, đối thoại, có uy tín trong cộng đồng.
Trung tâm hòa giải, đối thoại được thành lập tại một các Tòa án nhân dân cấp huyện và tỉnh. Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án làm giám đốc Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Tùy theo nhiệm vụ và quyền hạn mà các cấp TAND sẽ có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong việc phân chia quản lý, tránh xảy ra hiện tượng chồng chéo. Hiện nay, TAND cấp quận, huyện, thành phố đang là cấp trực tiếp tiến hành hoạt động hòa giải này, đây là cơ quan nắm rõ nhất việc ứng dụng hoạt động hòa giải vào giải quyết tranh chấp vào thực tế hiệu quả, vướng mắc, bất cập còn tồn tại, .... TAND cấp tối cao với tầm nhìn vĩ mô, sẽ chịu trách nhiệm quản lý, cập nhật và điều chỉnh các vấn đề chưa phù hợp của TAND cấp dưới.
TAND cấp tỉnh đóng vai trò là cấp trung gian, chỉ đạo TAND cấp dưới thực hiện các quy định sao cho chính xác và đem lại hiệu quả tốt nhất, đồng thời cũng là cơ quan đóng vai trò báo cáo và tham mưu lên cơ quan cấp trên về kết quả thực hiện trên thực tế để có những điều chỉnh phù hợp. Việc phân công một cách rõ ràng nhiệm vụ của TAND các cấp theo đúng chuyên môn giúp xử lý thông tin một cách nhanh chóng và chính xác.
* Điểm khác biệt so với hòa giải trong tố tụng và các hình thức hòa giải ngoài tố tụng khác
Nếu như điểm khác biệt giữa hòa giải gắn với Tòa án so với các hình thức hòa giải ngoài tố tụng khác chủ yếu là bởi chủ thể tiến hành hoạt động hòa giải này là Hòa giải viên thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện thay vì các bên thứ ba khác, thì điểm khác biệt giữa hòa giải gắn với Tòa án với hòa giải trong tố tụng là hoạt động này diễn ra trước khi bắt đầu quá trình giải quyết tranh chấp dân sự, đây là một thủ tục không bắt buộc đối với các vụ án dân sự mà pháp luật quy định khi mở phiên tòa xét xử.
Quá trình hòa giải được thực hiện theo trình tự và thủ tục quy định, Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ và cung cấp nhân sự là các hòa giải viên thực hiện hòa giải để đưa ra phương pháp giải quyết tranh chấp sao cho khéo léo, phù hợp và giải thích pháp luật cho các bên hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ tranh chấp, nhằm mục đích định hướng cho các đương sự tự thỏa thuận với nhau về tranh chấp giữa các bên. Tổ chức chịu trách nhiệm quản lý và thực hiện hoạt động hòa giải này là Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, đây là tổ chức được thành lập và được đặt ngay tại Trụ sở của TAND cấp quận, cấp huyện hoặc cấp thành phố. Mặc dù được đặt tại Tòa án nhưng Trung tâm hòa giải, đối thoại không phải một bộ phận của Tòa án.