Hồi tỵ là gì? Lịch sử hình thành chế độ hồi tỵ ở Trung Quốc?

Hồi tỵ là gì? Lịch sử hình thành và phát triển chế độ hồi tỵ tại Trung Quốc? Khái quát về sự hình thành và phát triển của chế độ hồi tỵ ở Trung Quốc?

1. Hồi tỵ là gì?

Hồi tỵ  theo nguyên nghĩa tiếng Hán nghĩa tránh, trốn tránh một cách cố ý). Thuật ngữ này xuất hiện sớm nhất từ thời Hán Trung Quốc. Trong “Hán thư, Triệu Quảng Hán truyệnchép: Gặp những việc do gió sinh ra, không cách nào tránh . Sau này trong các thư tịch văn bản pháp luật của các triều đại sau, thuật ngữ hồi tỵxuất hiện nhiều lần với hàm nghĩa chính: trong một số trường hợp đặc biệt một người được bổ nhiệm làm quan quê hương hoặc nơi con thân thuộc, quan có người thân, đồng liêu, hay gặp các việc liên quan đến người thân thì phải tránh đi, tàu lên cấp trên để đổi đi chỗ khác hoặc làm nhiệm vụ khác.

Như trong Nguyên sử. Hình pháp chí. Hình pháp. Chức chế thượngghi: Các quan trong khi từ tụng, những việc liên quan đến mình, đến người thân hoặc những người quan hệ hôn nhân... cần phải Hồi tỵ không Hồi tỵ, đều bị tội[26, tr.99]. Thanh hội điển ghi: Khang Hy năm thứ 3 quy định: quan viên đang đương chức bên ngoài Thượng ty người đồng tộc thì phải Hồi t.

Ngày nay Trung Quốc, thuật ngữ hồi tỵvẫn được sử dụng. Trong từ điển pháp luật Trung Quốc, Hồi tỵ chỉ một nhân viên trong ngành pháp sẽ không tham gia vào quá trình tố tụng vụ án liên quan đến lợi ích của họ hoặc họ liên quan đến những đương sự trong vụ việc

Chế độ hồi tỵ trong hoạt động bổ nhiệm, quản quan lại tại Trung Quốc thời cổ đại chế độ quan trọng được hình thành thực hiện từ rất sớm trong lịch sử pháp của Trung Quốc thế giới, với mục tiêu nhằm ngăn chặn sự cấu kết phái, bổ nhiệm theo tình cảm, lợi ích nhân thực hiện những hành động không đúng quy định để can dự vào hoạt động tuyển chọn, quản quan lại tại trung ương địa phương; đồng thời, đây cũng nguyên tắc pháp định về quản nhân sự dựa trên pháp luật.

Tại Trung Quốc, hầu như tất cả các triều đại trong lịch sử phong kiến từ thời Tần Hán đến cuối đời Nhà Thanh đều chú trọng việc thiết lập thực thi chế độ hồi tỵ, nội dung của chế độ hồi tỵ ngoài việc đề cập đến quản nhân sự, còn quy định cả về chế độ khảo thí, tuyển chọn nhân tài, chế độ bồi dưỡng..., trải qua thời gian dài đã để lại những kinh nghiệm bài học lịch sử cùng phong phú

2. Lịch sử hình thành và phát triển chế độ hồi tỵ tại Trung Quốc:

2.1. Thời kỳ Lưỡng Hán (202 TCN – 220):

Thời kỳ Lưỡng Hán, chế độ hồi tỵ vào giai đoạn đầu hình thành. Tại thời kỳ đầu của Nhà Tây Hán, việc bổ nhiệm quan lại không sự hạn chế về quê quán, cho đến giữa thời kỳ Hán Đế, để ngăn ngừa tình trạng quan hệ “dây lưng buộc váy, ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật, đồng thời để duy trì sự tập trung quyền lực, tăng cường thiết chế quân chủ trung ương tập quyền, hạn chế tình trạng cát cứ địa phương, sự câu kết của các thế gia vọng tộc, Hán Đế đã đưa ra những hạn chế về quê quán trong việc bổ nhiệm quan viên quan giám sát tại các châu, quận, huyện không phải người tại địa phương đó.

Ngoại trừ các châu, quận, huyện tại kinh kỳ tính chất nửa trung ương nửa địa phương không phải chịu sự hạn chế, thì từ chức Quận thủ cho đến các chức quan tại cấp huyện đều bị hạn chế không dùng người của quận, huyện đó, chức quan Thích sử cũng không dùng người tại châu đó. Ngoài ra, để ngăn ngừa sự ham muốn đế vị của những người trong tổn thất, ảnh hưởng đến sự vận hành bình thường, thống nhất của chính quyền trung ương, quy định người trong tổn thất không được quản 3 quận Hà Đông, Nội và Hà Nam trực thuộc kinh kỳ

Thời Đông Hán (25220), các hạn chế về quê quán khi tuyển chọn các chức danh Thích sử châu, Quận quốc thủ tướng quan viên cấp huyện tương đối nghiêm ngặt, thậm chí các châu, quận, huyện tại kinh kỳ cũng quy định không dùng người bản địa. Văn bản pháp quy chính thức đầu tiên quy định về chế độ hồi tỵ được ban hành Tâm hỗ phápthời Hán Hoàn Đế. Tam hỗ phápquy định hai gia đình quan hệ hôn nhân người cùng một châu không được cai trị hai châu giáp nhau, từ đó ngăn họ sử dụng việc bao che cho người thân của nhau để tiến hành các giao dịch quyền lực. dụ như: Sử Bật một quan viên thời Đông Hán, ông vốn được bổ nhiệm làm Thái thủ quận Sơn Dương, nhưng bố mẹ vợ của ông ta tình cờ lại quận Sơn Dương, nên đã tự đề nghị “hồi tỵđể chuyển đến nhậm chức tại nơi khác

2.2. Thời kỳ Tùy (581-618), Đường (618-907), Tống (960-1279):

Từ thời Tùy Đường cho đến thời Nhà Tống, sự phát triển của chế độ hồi tỵ bước sang giai đoạn hoàn chỉnh với quy định chi tiết về các loại hình hồi tỵ. Sau khi Tùy Văn Đế Dương Kiên thống nhất thiên hạ, nhằm tăng cường chế độ trung ương tập quyền, củng cố cục diện thống nhất vừa giành được, đặc biệt đẩy mạnh kiềm chế chuyên chế cường hào địa phương, làm suy yếu các thế lực tại địa phương, đã đưa ra quy định hồi tỵ về quê quán đối với các quan viên tại địa phương, theo đó các chức quan chủ chốt không được do người quê quán tại địa phương đó nắm giữ. Trưởng quan của châu, huyện mỗi 3 năm thay đổi 1 lần, phó quan nhiệm kỳ 4 năm không được bổ nhiệm lại. Nhà Đường cũng đưa ra những hạn chế nghiêm ngặt về quê quán thân thuộc đối với việc bổ nhiệm quan lại.

Đối với hạn chế về địa vực, quan lại không những không được nhận chức tại quê mình, hơn nữa còn không được phép làm quan tại huyện lân cận với châu, huyện của mình. Tháng 7 năm Vĩnh Thái thứ nhất, Đường Đại Tông hạ chiếu: Không cho phép bách tính làm quan tại châu, huyện mình hoặc huyện lân cận.... Đối với hồi tỵ về thân thuộc, thời Nhà Đường những hạn chế nghiêm ngặt hơn thời Nhà Hán, quy định rằng một người khi nhậm chức bất kỳ mối liên hệ công việc, quan hệ lệ thuộc cấp trên cấp dưới hoặc quan hệ giám sát, kiểm tra với người thân thuộc của mình, thì đều phải hồi ty.

dụ như: con trai của Tể tướng không thể làm Gián quan (quan ngự sử), anh em không thể cùng nhậm chức trong cùng một quận, huyện. Ngoài ra, quy định người thân của quan lại cấp cao triều đình không thể đảm nhận các chức quan địa phương thuộc kinh kỳ. Nhà Tống kế thừa các quy định của Nhà Đường, thậm chí quy định nghiêm ngặt hơn về việc hồi tỵ, ngoài quy định quan lại địa phương 3 năm thay đổi 1 lần người bản địa không được phép làm quan tại địa phương mình ra, còn quy định một người không phải người bản địa nhưng nếu điền sản của gia tộc tại nơi đó thì cũng phải hồi tỵ, đồng thời quy định quan lại không được phép mua nhà trong khu vực thuộc thẩm quyền quản của mình, sau khi rời chức cũng không được ở nhờ tại nơi đó

2.3. Thời Minh (13681644), Thanh (16361912):

Đây giai đoạn hoàn thiện của hệ thống chế độ hồi tỵ, trên sở quy định của các triều đại trước. Trong hội phong kiến kéo dài hàng ngàn năm tại Trung Quốc, giai cấp thống trị phong kiến đã tích lũy được kinh nghiệm quản hành chính phong phú, thiết lập được chế độ nhân sự hệ thống chặt chẽ

Chế độ hồi tỵ trong thời nhà Minh càng được thể hiện rệt, với hai nguyên tắc bản hồi tỵ về quê quán và hồi tỵ về thân thuộc. Đối với nguyên tắc hồi tỵ về quê quán, Minh sử Tuyển cử chỉđã ghi chép: Vào thời Hồng (niên hiệu của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương), thiết lập chế độ điều chuyển giữa Bắc Nam, người miền Nam làm quan miền Bắc, người miền Bắc làm quan miền Nam. Về sau, khi quan chế dần ổn định, ngoại trừ quan học (quan quản việc dạy học), tất cả quan lại đều không được nhậm chức tại tỉnh mình, không giới hạn phía Nam hay phía Bắc.

Quy định người Bắc Bình, Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Nam, Tứ Xuyên chỉ thể nhậm chức tại Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Trực Lệ; người Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Trực Lệ chỉ thể nhậm chức tại Bắc Bình, Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, người Lưỡng Quảng, Phúc Kiến chỉ thể nhậm chức tại Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Nam, Tứ Xuyên. Nhưng nếu người không đủ năng lực hoặc bị giáng chức, thì bất luận quê quán đâu, cũng chỉ thể nhậm chức tại Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, hai châu Thanh Chương, Long Nam An Viễn của Giang Tây và Sâm Trâu của Hồ Quảng. Giữa thời Nhà Minh, các hạn chế dần dần được nới lỏng, quan lại hành chính dân sự, quân sự tài chính tại một địa phương thể nhậm chức tại địa phương lân cận, học quan, thương quan (quan quản thương khố) thể đến phủ lân cận, quan lại tại khu vực biên giới xa xôi quan lại cấp phủ trở xuống có thể đến quan phủ khác trong tỉnh.

Với mục tiêu ngăn chặn người bản địa nắm giữ quyền lực tại địa phương, dốc toàn lực để tăng cường chế độ trung ương tập quyền, Hồng năm thứ 26, còn đặc biệt đưa ra quy định, quan lại Bộ Hộ không thể dùng người của 3 tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Tùng, bởi thuế ruộng vào mùa hạ mùa thu của 3 tỉnh này chiếm một nửa cả nước, áp dụng quy định hồi tỵ sẽ giúp ngăn ngừa việc quan lại Bộ Hộ lợi dụng quan hệ đồng hương để ăn gian thuế hòng mưu lợi nhân.

Về nguyên tắc hồi tỵ thân thuộc, chủ yếu để nhằm ngăn chặn hình thành phe phái của một dòng tộc hoặc những người thân thuộc với nhau, trong đó quy định: Nếu cha, anh, em, chú, bác làm chức Đường thượng quan, thì con, anh, em, cháu được bổ nhiệm làm Khoa đạo quan quan giám sát), phải thay đổi chức vụ. Cha, con, anh, em, cháu khi đảm nhận các chức vụ quan hệ lệ thuộc với nhau, thì người người chức vụ thấp hơn phải đổi sang chức khác không quan hệ lệ thuộc với người thân thuộc của mình.

Những người họ hàng gần nếu làm việc trong cùng một quan hoặc đồng thời đảm nhận trưởng quan giám sát Khoa đạo quan của bộ, viện, tự, thì người chức vụ thấp hoặc vai vế nhỏ hơn sẽ bị điều đi. Vào thời Vạn Lịch (niên hiệu của Minh Thần Tông Chu Dực Quân) quy định: bất kể thứ bậc vai vế như thế nào, chỉ cần xem xét đến chức quan lớn hay nhỏ, thì lấy nhỏ để tránh lớn. Thời Hoằng Trị (niên hiệu của Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường) còn đưa ra quy định, người trong hoàng tộc chỉ thể làm quan bên ngoài, nếu nhậm chức tại kinh thành sẽ bị điều đi, quan lại trong triều đình không được cùng đi đến cùng một nơi với các phiên vương, để phòng ngừa việc các phiên vương lợi dụng quan hệ hôn nhân để tiến vào các quan trọng yếu của chính quyền trung ương, điều này khiến cho các phiên vương không thể cùng quan chức kết thành phái thân thuộc

Nhà Thanh dựa trên các quy định của Nhà Minh, đưa ra các hạn chế về quê quán đó : khi được điều đến một địa phương nhậm chức, thì phải tránh tỉnh của mình. Khang Hy năm thứ 42 đã đưa ra quy định cụ thể hơn, đó nếu được điều đến nhậm chức tại nơi cách tịch quán trong vòng 500 dặm, thì phải hồi tỵ. Ngoài ra, hạn chế đối với việc người thân thuộc nhậm chức càng cụ thể, nghiêm ngặt, dụ như con cháu của quan Thượng thư hoặc Thị lang từ hàm tam phẩm trở lên không được thi hoặc chọn làm Khoa đạo quan (quan giám sát), quan lại chủ chốt của một phủ nếu người thân trong gia tộc phủ đó, thì thể bị điều động đến nơi khác trong tỉnh, nhưng bắt buộc phải rời khỏi phủ đó.

Thời Khang Hy, Ung Chính quy định, quan lại tại kinh thành từ chức vụ thấp như Bút thiếp thức(4) cho đến Lục bộ Thượng thư, chỉ cần người thân ruột thịt hoặc người quan hệ về hôn nhân trong cùng nha môn(quan), thì người chức vụ thấp hơn phải chuyển đi. Quan lại địa phương nếu như nắm chức vụ liên quan đến luật hình, tiền bạc, lương thực cũng như kiểm tra, giám sát, chỉ cần trong họ tộc người cùng làm quan tại một nơi, thì người chức vụ nhỏ hơn phải hồi ty.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com