Hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường biển 

Nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường biển? Nội dung và các hình thức hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường biển?

1. Nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường biển:

Thế kỷ XX là thế kỷ nhân loại đạt được những bước tiến lớn trong phát triển khoa học – kỹ thuật. Nhưng cùng với quá trình phát triển kinh tế khu vực và toàn cầu, môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng đang đối mặt với nguy cơ bị ô nhiễm nghiêm trọng từ hoạt động khai thác của con người. Nếu không có những biện pháp khắc phục kịp thời, một khi sự cân bằng sinh thái của biển bị phá vỡ, biển sẽ có những tác động xấu trở lại với cuộc sống con người.

Nhận thức được điều này, vấn đề bảo vệ môi trường biển đã được các quốc gia quan tâm. Nhiều Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển đã được ra đời: Công ước London năm 1972 về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các chất thải do tàu và các chất thải khác; Công ước năm 1973 về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các chất thải do tàu; Công ước Brussel năm 1969 về các biện pháp chống ô nhiễm dầu do các vụ tai nạn trên biển cả, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982… Những công ước này đã tạo cơ sở và hành lang pháp lý cho việc gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa ô nhiễm trên biển.

Trong khi đó nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia trong bảo vệ môi trường biển theo Luật quốc tế bao hàm các nghĩa vụ của các quốc gia trong bảo vệ môi trường biển. Nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, bao gồm cả những khu vực ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia, được ghi nhận trong nhiều công cụ pháp lý ở cấp độ toàn cầu và khu vực, nhưng nghĩa vụ này phần lớn đã không được đáp ứng. Ngày nay, số lượng các mối đe dọa ngày càng tăng khiến nó trở nên cấp thiết, cần được hợp tác bảo vệ. Các mục tiêu phát triển và cam kết hướng tới đảm bảo sự phát triển bền vững của đại dương, bao gồm cả những phần biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia.

Luật Quốc tế đặt các quốc gia có nhiệm vụ chung là “ngăn chặn” thiệt hại đối với môi trường biển và sử dụng “trách nhiệm giải trình” trong tiến hành các hoạt động có hại tới môi trường biển dưới quyền tài phán hoặc sự kiểm soát của quốc gia. Hơn nữa, các quốc gia có nhiệm vụ hợp tác chung bằng các phương thức trao đổi thông tin, thông báo và tham vấn các quốc gia nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi các hoạt động hay sự việc đưa đến hậu quả môi trường biển. Hợp tác giữa các quốc gia là một trong bảy nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được thể hiện rõ trong Hiến chương Liên hợp quốc và Nghị quyết 2625 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Điều 74 của Quy chế Liên hợp quốc tuyên bố về tầm quan trọng của các | nguyên tắc về các đường láng giềng tốt trong lĩnh vực kinh tế xã hội và thương mại, bao gồm cả hợp tác trong lĩnh vực môi trường. Nguyên tắc này có nguồn gốc từ luật tục quốc tế “utere is sic et alieum non laedas”. Nguyên tắc này được thể hiện trong các điều ước quốc tế khác nhau, các quyết định của Tòa án quốc tế và thông lệ nhà nước. Hợp tác bảo vệ môi trường được viết bằng văn bản không ràng buộc, bắt đầu từ Stockholm. Trong Tuyên bố Nguyên tắc 27 của Tuyên bố Stockholm cũng nêu rõ rằng sự hợp tác như vậy phải tồn tại giữa Nhà nước-Quốc gia với cộng đồng trong khuôn khổ thiện chí. Tuyên bố Rio cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác trong Nguyên tắc 5 và Nguyên tắc 27, trong đó nhấn mạnh đến thiện chí và sự phát triển của luật pháp quốc gia trong khuôn khổ phát triển bền vững. Việc đặt ra nguyên tắc đối tác này là các thỏa thuận quốc tế ràng buộc, đặc biệt là hợp tác bảo vệ biển theo Điều 187 của UNCLOS quy định rằng các Quốc gia nên hợp tác toàn cầu và khu vực một cách trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong việc xây dựng và giải thích các quy tắc, tiêu chuẩn – tiêu chuẩn và các thông lệ quốc tế được khuyến nghị và các thủ tục phù hợp với Công ước này nhằm mục đích bảo vệ và xây dựng môi trường biển, có tính đến các đặc điểm điển hình của khu vực,

Theo phần XII của UNCLOS quy định nghĩa vụ hợp tác là nguyên tắc cơ bản trong ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển. Theo đó nó đặt ra cho các quốc gia bốn nghĩa vụ chính:

Thứ nhất, tất cả các quốc gia có nghĩa vụ vô điều kiện thực hiện các biện pháp để bảo vệ và bảo tồn môi trường biển (Điều 192) và khai thác tài nguyên biển phù hợp với nghĩa vụ này (Điều 193). Đây được coi là nền tảng của luật quốc tế về môi trường biển, đó là chuyển việc bảo vệ môi trường biển từ một quyền của quốc gia đơn thuần sang một nghĩa vụ pháp lý tích cực, không giới hạn trong các tình huống xuyên biên giới.

Thứ hai, các quốc gia phải hợp tác trên cơ sở toàn cầu hoặc khu vực, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc phát triển đa phương các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế, thông lệ và thủ tục để bảo vệ và bảo tồn môi trường biển (Điều 197). Đặc biệt là nhấn mạnh vào hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực có ven biển kín hoặc nửa kín (Điều 123).

Thứ ba, để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất ở mức cao nhất, UNCLOS yêu cầu các nước thực thi các luật và tiêu chuẩn quốc tế được ban hành bởi các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và đã được thừa nhận, áp dụng rộng rãi. Mức độ tuân thủ các luật và điều lệ nêu trên phụ thuộc vào các hình thức hoạt động và vùng biển mà các hoạt động đó diễn ra. Các quốc gia phải lên kế hoạch, tuân tủ, áp dụng và thực hiện các luật và tiêu chuẩn quốc tế từ mức độ thấp nhất đến cao nhất tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể.

Thứ tư, các quốc gia phải tuân theo một loạt các nghĩa vụ liên quan đến thông báo và trao đổi thông tin, kế hoạch khẩn cấp chống ô nhiễm, hợp tác thông qua nghiên cứu khoa học và hỗ trợ công nghệ, giám sát và báo cáo. Ngoài ra, UNCLOS còn yêu cầu các quốc gia “càng nhiều càng tốt” thực hiện đánh giá tác động môi trường.

Ngoài ra Chương 17 của Chương trình nghị sự 21 có nhấn mạnh về sự cần thiết phải cải thiện sự hợp tác và phối hợp giữa các quốc gia, khu vực và toàn cầu liên quan đến vấn đề môi trường biển [11]. Mặc dù bản chất không ràng buộc về mặt pháp lý, Chương 17 có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của môi trường biển và các nguyên tắc của nó cũng như các khuyến nghị đã được áp dụng như là hướng dẫn cho các Quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện các cam kết của họ theo UNCLOS. Các chuyên ra pháp lý đã chỉ ra rằng, có sự tương tác chặt chẽ giữa Chương 17 và UNCLOS. Nếu UNCLOS thiết lập khuôn khổ pháp lý chung cho chương trình hành động trong Chương 17 thì ngược lại Chương 17 lại giải thích các phương pháp để triển khai UNCLOS. Cụ thể năm 1997, tại Kỳ họp đặc biệt lần thứ 19, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã chính thức hóa điều này và yêu cầu Ủy ban Liên hợp quốc về Phát triển bền vững đánh giá định kỳ tiến độ thực hiện Chương 17 trên cơ sở khuôn khổ pháp lý do UNCLOS thiết lập.

2. Nội dung hợp tác giữa các quốc gia về bảo vệ môi trường biển:

Hợp tác giữa các quốc gia không chỉ là xu hướng chung của thế giới ngày nay mà còn là nghĩa vụ được quy định trong luật pháp quốc tế. Thông qua hợp tác, chúng ta thúc đẩy các nỗ lực chung bảo đảm an ninh, hoà bình, ổn định cho các vùng biển trước các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống trên biển, cùng đảm bảo quyền tự do khai thác tài nguyên trong vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia mình cũng như gìn giữ môi trường biển và duyên hải, thúc đẩy sự quản lý hiệu quả đối với các tài nguyên biển hướng tới sự phát triển biển bền vững.

Công ước Luật biển 1982 ghi nhận sự “hợp tác giữa các quốc gia trên phạm vị thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực”

Từ những quy định trên có thể khẳng định nội dung hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển là sử dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển thông qua chia sẻ thông tin, dữ liệu, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và các hoạt động khác để bảo vệ môi trường biển, để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thương mại quốc tế; phòng ngừa và hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường đáp ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ hướng tới phát triển bền vững biển.

Một số lĩnh vực hợp tác quốc tế điển hình trong bảo vệ môi trường biển bao gồm:

* Trong lĩnh vực dầu khí: 

Ô nhiễm dầu là một mối đe dọa rất lớn đối với đại dương và hệ sinh thái biển. Đó là chất ô nhiễm tồi tệ nhất trong số các chất ô nhiễm có nguồn gốc từ biển. Dầu trong môi trường biển đến từ nhiều nguồn khác nhau. Một số nguyên nhân chính là sự cố tràn dầu, dầu chảy tràn, thậm chí dầu thấm tự nhiên ra biển do vỡ tàu chở dầu (tàu dầu), rò rỉ đường ống dẫn dầu, hoạt động khoan, vận chuyển người hoặc các hoạt động giải trí, nhân lực không có tay nghề, không kiểm tra được các hỏng hóc, các nguyên nhân tự nhiên ngoài tầm kiểm soát của con người, sự cố tràn dầu do vận hành, làm sạch các bể chứa và các dòng chảy do ô nhiễm đất.

Trong các nguyên nhân nêu trên thì ô nhiễm dầu từ tàu là nguyên nhân chủ yếu trên biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển, Liên hợp quốc đã thành lập tổ chức Hàng hải quốc tế IMO vào năm 1948 từ đề xuất của các quốc gia thành viên. IMO có trách nhiệm đặc biệt trong việc bảo vệ cuộc sống biển, và môi trường biển thông qua việc ngăn chặn ô nhiễm biển từ các phương tiện hàng hải. Công ước Marpol 73/78 và Công ước quốc tế về chuẩn bị, ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu OPRC ra đời với trọng tâm là ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu, nhằm cung cấp một khuôn khổ toàn cầu cho hợp tác quốc tế trong việc chống lại các sự cố lớn hoặc các mối đe dọa ô nhiễm biển. Các quốc gia tham gia Công ước Marpol 73/78 và OPRC được yêu cầu thiết lập các biện pháp để đối phó với các sự cố ô nhiễm, ở phạm vi quốc gia hoặc hợp tác với các quốc gia khác trong khu vực hoặc quốc tế nhằm bảo vệ môi trường biển.

Theo IMO thì hiện nay có một số vùng biển trên thế giới dễ bị tổn hại do các hoạt động hàng hải quốc tế gây ra, cần được bảo vệ đặc biệt, cần thiết yêu cầu nghiêm ngặt hơn để quản lý và bảo vệ gọi là các khu vực đặc biệt, do hệ sinh thái và giao thông đường biển bao gồm các vùng biển kín hoặc nửa kín (theo phụ lục I Công ước Marpol). Việc xả dầu ra biển và việc xử lý rác thải trên tàu bị cấm hoàn toàn. Ngoài ra, lệnh cấm hoàn toàn đối với việc vận chuyển hoặc sử dụng dầu nhiên liệu nặng có hiệu lực vào ngày 1 tháng 8 năm 2011, theo quy định của MARPOL Phụ lục I.

Sự công nhận này đối với các khu vực đặc biệt, cùng với quy định toàn cầu, là một dấu hiệu rõ ràng về nhận thức mạnh mẽ của IMO và cam kết hoàn toàn về tầm quan trọng cơ bản của việc bảo vệ và gìn giữ các biển và đại dương trên thế giới như là hệ thống hỗ trợ sự sống quan trọng cho tất cả các dân tộc.

* Trong lĩnh vực rác thải nhựa: 

Ô nhiễm nhựa rải rác khắp các bãi biển và trong các đại dương, vịnh và cửa sông. Các hạt vụn nhựa nhỏ (vi nhựa) lan tràn trong các hệ sinh thái dưới nước đến nỗi chúng ta tìm thấy chúng trong cả hải sản và muối ăn. Các sinh vật biển ăn phải hoặc bị nhựa cuốn vào, đôi khi gây ra hậu quả chết người. Ô nhiễm nhựa có thể ảnh | hưởng đến đa dạng sinh học, dịch vụ hệ sinh thái, an ninh lương thực và sức khỏe con người. Tóm lại, ô nhiễm nhựa là một mối đe dọa toàn cầu.

Nhận định về tầm quan trọng của vấn đề toàn cầu về rác thải nhựa đại dương, tiến sỹ Julyus Melvin Mobilik (Bộ Biển Malaysia) cho rằng, không một quốc gia nào có thể đơn phương xử lý vấn đề này mà cần phải phối hợp, hợp tác, thực hiện các biện pháp chung. Biện pháp ngắn hạn là cần phải có phương án thay thế các sản phẩm nhựa dùng một lần như túi nilon, cốc, ống hút… Bên cạnh đó, cần tìm ra phương án cắt giảm nguồn phát sinh chất thải vi nhựa, khuyến khích doanh nghiệp phát triển các công nghệ tái chế, xử lý rác thải nhựa hiện đại có thể giúp rút ngắn thời gian tồn tại của rác thải nhựa.

Hợp tác quốc tế là cần thiết để giảm nhu cầu đối với các sản phẩm nhựa sử dụng một lần, chuyển sang nền kinh tế nhựa bền vững và cải thiện cơ sở hạ tầng quản | lý chất thải nhằm thúc đẩy không chất thải. Để làm được điều này, cộng đồng quốc tế phải cam kết thực hiện các mục tiêu cụ thể, có thể đo lường được, có thời hạn để giảm lượng rác thải nhựa vào các đại dương của chúng ta. Bằng cách học hỏi từ biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường toàn cầu khác (ví dụ: suy giảm tầng ôzôn), chúng ta có thể theo dõi nhanh các giải pháp ở quy mô toàn cầu. Công ước quốc tế đầu tiên quy định về ô nhiễm nhựa là Marpol 73/78 tại phụ lục V. Năm 2012, cam kết tự nguyện về giảm thiểu đáng kể các mảnh vụn biển đã được đưa ra tại Hội nghị Rio + 20 với thời hạn là năm 2025. Tương tự, vào tháng 2 năm 2017, UNEP đã công bố chiến dịch Biển sạch, yêu cầu các cá nhân, ngành công nghiệp và các quốc gia thành viên tự nguyện cam kết cho một hành động do họ lựa chọn để giảm ô nhiễm nhựa.

Trong những năm gần đây, dòng chảy chất thải nhựa ra đại dương đã thu hút sự chú ý như một vấn đề môi trường toàn cầu lớn. Theo một số kết quả nghiên cứu, 70-80 % rác thải biển là nhựa. Trong năm 2015, hơn vài triệu tấn nhựa đã được đổ từ đất liền vào đại dương. Phần lớn lượng rác thải nhựa chảy ra các đại dương của thế giới do Trung Quốc và các nước Đông Nam Á gây ra. Do vy, khu vực biển Đông có nguy cơ cao về ô nhiễm rác thải nhựa trên biển nên cần sự chung tay hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực để bảo vệ môi trường biển từ rác thải nhựa.

Ngoài các lĩnh vực hợp tác quốc tế nêu trên còn có hợp tác quốc tế bảo vệ môi trường biển trong lĩnh vực thuỷ sản, hàng hải, du lịch và dịch vụ biển, công nghiệp, năng lượng…

3. Các hình thức hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển:

Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể để giải quyết các vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Thực tế hiện nay, quá trình hợp tác quốc tế đã phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và diễn ra trên nhiều cấp độ như: song phương, đa phương, khu vực, tiểu khu vực và toàn cầu thu hút hầu hết các nước trên thế giới với mức độ hội nhập quốc tế cũng ngày một sâu sắc và toàn diện hơn.

3.1. Hợp tác song phương:

Hợp tác song phương đề cập đến các ràng buộc hoặc mối quan hệ giữa hai quốc gia có chủ quyền, các hoạt động hợp tác được duy trì trực tiếp bởi quốc gia này với quốc gia kia và ngược lại. Trong đó sự hợp tác diễn ra đối với các vấn đề mà hai quốc gia cùng quan tâm. Các Hiệp định kinh tế là ví dụ điển hình, như hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), được ký kết bởi hai quốc gia, là một ví dụ phổ biến của hợp tác song phương. Vì hầu hết các thỏa thuận kinh tế được ký kết theo các đặc điểm cụ thể của các quốc gia ký kết để dành sự ưu đãi cho nhau, không phải là một nguyên tắc chung chung mà là sự khác biệt mang tính tình huống là cần thiết. Do đó, thông qua hợp tác song phương, các quốc gia có thể có được các thỏa thuận và nghĩa vụ phù hợp hơn, điều này chỉ áp dụng cho các quốc gia ký kết cụ thể. Trong chiến lược hợp tác song phương, một hợp đồng mới phải được đàm phán cho mỗi quốc gia tham gia. Vì vậy, nó có xu hướng được ưa thích khi chi phí giao dịch và thặng dư thành viên thấp, tương ứng với thặng dư nhà sản xuất về mặt kinh tế là cao. Hơn nữa, điều này sẽ có hiệu quả nếu một quốc gia có ảnh hưởng muốn kiểm soát các quốc gia nhỏ từ góc độ chủ nghĩa tự do, bởi vì xây dựng một loạt các thỏa thuận song phương với các quốc gia nhỏ có thể làm tăng ảnh hưởng của quốc gia đó.

Hợp tác song phương được kết nối với chính sách đối ngoại của một quốc gia sử dụng hợp tác để duy trì ảnh hưởng bên ngoài của mình ở quốc gia tiếp nhận. Có thể thấy rõ hầu hết các nước lớn trên thế giới, như Trung Quốc luôn muốn duy trì tầm ảnh hưởng của mình để kiểm soát các quốc gia khác thông qua quan hệ song phương để đạt được các thoả thuận song phương có lợi cho họ. Điển hình trong chiến lược giải quyết các tranh chấp trên biển đông của Trung Quốc luôn muốn đối thoại song phương với các nước trong khu vực để giải quyết.

 Theo tác giả Hoàng Khắc Nam thì hợp tác song phương có mối quan hệ mật thiết với hợp tác đa phương. Đó là:

– Quan hệ song phương là nền tảng cơ sở xuất phát cho quan hệ đa phương. – Quan hệ song phương là điều kiện cho quan hệ đa phương.

– Quan hệ song phương là nguồn cung cấp cơ chế và lực lượng cho quan hệ đa phương.

– Quan hệ song phương là cách thức thực hiện quan hệ đa phương [40].

Hợp tác song phương giữa hai quốc gia trong vấn đề bảo vệ môi trường biến có thể là chính thức trên cơ sở thỏa thuận hợp tác song phương cụ thể hoặc biên bản ghi nhớ hoặc không chính thức – mà không cần ký kết thỏa thuận. Sự hợp tác có thể diễn ra giữa các quốc gia, giữa các nhóm và giữa hai tổ chức khu vực.

3.2. Hợp tác khu vực và toàn cầu (đa phương):

Hợp tác đa phương đề cập đến các ràng buộc hoặc mối quan hệ giữa nhiều quốc gia có chủ quyền (ba quốc gia trở lên) mà không có sự phân biệt đối xử giữa những quốc gia có liên quan để cùng hợp tác các vấn đề mà các quốc gia cùng quan tâm. Chẳng hạn như Hợp tác giữa các quốc trong bảo vệ môi trường biển ở khu vực biển Malacca giữa Indonesia, Singapore và Malaysia. Hợp tác đa phương được thể hiện qua hai hình thức cơ bản là hợp tác khu vực và hợp tác toàn cầu.

Hợp tác khu vực đề cập đến các cơ chế chính trị và thể chế mà các quốc gia trong một khu vực địa lý chung thiết lập để tìm kiếm và củng cố các lợi ích chung cũng như thúc đẩy lợi ích quốc gia của họ thông qua hợp tác và đối thoại lẫn nhau. Trong khu vực biển Đông, cơ chế hợp tác bảo vệ môi trường biển được thể hiện rõ nét qua sự hợp tác của các nước trong khu vực Asean với chiến lược và chính sách hợp tác trong lĩnh vực môi trường thông qua Hội nghị Bộ trưởng môi trường Asean (AMME).

Hợp tác toàn cầu được định nghĩa là hành động của tất cả các quốc gia làm việc cùng nhau để hoàn thành các vấn đề và sứ mệnh toàn cầu. Các sứ mệnh và vấn đề của hợp tác toàn cầu là môi trường, nghèo đói, chiến tranh, dịch bệnh, động vật tuyệt chủng, vv. Để giải quyết những vấn đề này, đòi hỏi sự hỗ trợ và nỗ lực rất lớn từ các quốc gia khác do hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt với những vấn đề giống nhau đặc biệt là bảo vệ môi trường trong đó có môi trường biển. Điển hình là tổ chức hàng hải quốc tế IMO của Liên Hợp quốc, IMO thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên có trách nhiệm đặc biệt trong việc bảo vệ biển, và môi trường biển thông qua việc ngăn chặn ô nhiễm biển từ các phương tiện hàng hải.

Trong cơ chế hợp tác đa phương các quốc gia tham gia sẽ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau theo nguyên tắc của Luật quốc tế qua đó hạn chế được sự áp đặt của các nước lớn như trong hợp tác song phương giữa các quốc gia. Đặc biệt trong khu vực biển Đông, thường xuyên xảy ra các tranh chấp về chủ quyền giữa các quốc gia, một điểm nóng về an ninh, an toàn, môi trường biển trên thế giới. Ví dụ cơ chế hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực Asean với Trung Quốc trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển như Pemsea, Cobsea hay DỌC.

Trong mối quan hệ giữa hợp tác giữa các quốc gia, quan hệ đa phương là sự phát triển tất yếu của lịch sử quan hệ quốc tế do xu hướng phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của thế giới, do hướng ngoại và hợp tác trở thành nhu cầu phát triển của mọi quốc gia, do sự xuất hiện ngày càng nhiều các vấn đề liên quốc gia vượt khỏi khả năng của quan hệ song phương. Sự ra đời của quan hệ đa phương nhằm bổ khuyết những hạn chế của quan hệ song phương. Đồng thời, sự phát triển quan hệ đa phương cũng tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ song phương.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com