Lịch sử hình thành, phân loại chế độ hồi tỵ ở Việt Nam thời kỳ phong kiến

Quá trình hình thành và phát triển chế độ hồi tỵ? Phân loại chế độ hồi tỵ ở Việt Nam thời phong kiến? Khái quát chung về chế độ hồi tỵ ở Việt Nam thời kỳ phong kiến?

1. Khái quát chung:

Trong quá trình hàng ngàn năm dựng nước giữ nước, các thiết chế tổ chức bộ máy hành chính cũng như chế độ, chính sách quản đội ngũ quan lại cũng từng bước được hình thành phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu quản phát triển kinh tế, văn hóa, hội, an ninh quốc phòng của đất nước trong từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, trên phương diện văn hóa nói chung văn hóa chính trị pháp lý nói riêng, Việt Nam chịu sự ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp thu nhiều yếu tố từ Trung Quốc, trong đó, chế độ quan lại của nhà nước phong kiến một trong những phương diện thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc nhất.

Trong lịch sử, Trung Quốc quốc gia ban hành luật hồi tỵ sớm nhất cũng quốc gia thực hiện chế độ này chặt chẽ nhất. Các vương triều phong kiến Việt Nam xuất phát từ nhu cầu xây dựng củng cố thiết chế trung ương tập quyền, ngăn chặn nạn tham nhũng, kéo bè kết phái, bảo đảm sự công bằng trong tuyển dụng quan lại cũng như trong hoạt động thực thi công vụ, đã ban hành áp dụng các quy định về hồi tỵ, vận dụng một cách linh hoạt chế độ hồi tỵ của các vương triều Trung Hoa phù hợp với đặc điểm của nước Đại Việt

Về sở hình thành, luật hồi tỵ tại Việt Nam được xây dựng dựa trên chính sở hội văn hóa truyền thống của Việt Nam, sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của văn hóa dân gian, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi hệ tưởng Nho giáo, đồng thời xuất phát từ nền văn hoá nông nghiệp vốn phải phụ thuộc nhiều vào thời tiết, người nông dân xu hướng chú trọng tới các mối quan hệ hoà đồng, hình thành lối duy cầu an, ưa ổn định, ngại thay đổi. Bên cạnh đó, một đặc điểm của hội Việt Nam đó tồn tại tính cố kết chặt chẽ của nhân đối với gia đình, dòng tộc, quê hương, đây đã trở thành một truyền thống tốt đẹp lâu đời, nhưng cũng dẫn đến mặt trái con người những mối quan tâm cục bộ, thu hẹp trong một nhóm nhỏ người, thiếu tính lưu động tinh thần cộng đồng không cao.

Như vậy, nếu như trong một quan chính quyền hay địa phương một nhóm những người quan hệ gia đình, họ hàng, đồng hương sẽ môi trường tưởng để những người đó kéo kéo cánh, nâng đỡ, bao che cho nhau, câu kết với nhau để thực hiện hành vi tham nhũng, trái pháp luật . vậy, chế độ hồi tỵ được hình thành áp dụng như một biện pháp kiểm soát từ trên xuống để các vị hoàng đế thời phong kiến có thể ngăn chặn tình trạng này

Vnguyên nhân áp dụng chế độ t, thể thấy rằng, sở việc hồi tỵdo các vị vua phong kiến cho rằng, những người quan hệ thân thuộc, gần gũi nhau thường nể nang nhau, làm việc không khách quan, thiên vị, nâng đỡ lẫn nhau, gặp khi người nhà, người thân của mình chuyệnthì thường tránh hoặc bao che cho nhau, gây ra nhiều tiêu cực, làm cho bộ máy nhà nước kém hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, do sự thân quen, gần gũi điều kiện thuận lợi để dẫn đến sự cấu kết, đồng lõa với nhau trong việc thu vén quyền lợi, thể dẫn đến kết kéo cánh với nhau để tham nhũng tài sản của của nhà nước.

Do đó, một cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước khi được bổ nhiệm giữ một chức vụ hay phụ trách một công việc nào đó tại quê hương bản quán hoặc một quan nhưng thân thuộc, đồng liệu cần phải tránh đi, đổi đi nơi khác, phụ trách công việc khác. Luật hồi tỵ những quy định có cơ sở thực tiễn xã hội văn hóa truyền thống trọng tình nghĩa, đề cao các mối quan hệ tông tộc; đồng thời xuất phát từ nhu cầu của các vị vua phong kiến trong việc xây dựng củng cố thiết chế trung ương tập quyền, ngăn ngừa nạn tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ quan lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước

Triết lý hồi tỵ tại Việt Nam khởi nguồn từ sự nghiệp cải cách nền hành chính quốc gia toàn diện sâu sắc của vua Thánh Tông một vị vua anh minh đứng đầu thể chế quân chủ phong kiến trị đất nước suốt 38 năm (1460 1497). Với quan điểm Trăm quan nguồn gốc của trị, loạn. Quan đức, tài thì nước trị. Quan đức, kém tài thềm, bậc dẫn đến hoạ loạn, vua Thánh Tông đã sáng suốt đặt trọng tâm của sự nghiệp cải cách hành chính vào lĩnh vực cải cách thể chế cải cách đội ngũ quan lại.

Sau khi đã kinh nghiệm cai trị đất nước trong 26 năm, vua Thánh Tông đã đặt ra chế độ hồi tỵ phục vụ cho công tác bổ dụng đội ngũ quan lại phong kiến đương thời. Tại điều 2, chương Vi chế của bộ Quốc triều Hình luật ghi: Các quan chủ ti chấm thi cùng với người dự thi thân thuộc cần Hồi t. Đến thời Nguyễn, thuật ngữ này cũng được nhắc nhiều lần trong các văn bản của vương triều. Trong Đại Nam hội điển sự lệ, quy định về Hồi tỵ ghi:Nếu các khảo quan người thân thích dự thi trường mình thì phải báo lên cấp trên để tránh đi (Hồi tỵ). Nếu cố tình không khai báo sẽ bị trọng tội cố ý làm trái

2. Quá trình hình thành phát triển chế độ hồi tỵ:

Thời (14281527), trong nỗ lực cải cách bộ máy chính quyền xây dựng một thiết chế trung ương tập quyền mạnh, vua Thánh Tông (14421498) vị vua đầu tiên ban hành, hiện thực hóa chính sách hồi tỵ trong một nỗ lực đổi mới thể chế chính trị quan chế của nước ta. Ông không chỉ nhân tài về mặt trí tuệ còn một vị vua rất bản lĩnh quyết đoán nên mới khả năng thực hiện hồi tỵ với bề tôi của mình. Thánh Tông bắt đầu đưa ra quy định đầu tiên của chính sách hồi tỵ khi ông kinh nghiệm làm vua 26 năm tiếp tục bổ sung thêm quy định mới trong 11 năm sau đó.

Điều này chứng tỏ chính sách hồi tỵkhông chỉ được tiếp thu, vận dụng từ Trung Hoa, đó còn sáng tạo thực tiễn của vua Thánh Tông. Đối tượng thực hiện hồi tỵ thời các vị quan đứng đầu bộ máy chính quyền dân sự quân sự địa phương, tương đương với  ba cấp hành chính của nước ta hiện nay, song quan trọng nhất cấp sở vì các quan xã bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ gia đình, gia tộc, không thể giữ được sự công tâm, khách quan trong công việc. Điều này là điểm sáng tạo nổi bật nếu so với chế độ hồi tỵ tại Trung Quốc bản chỉ áp dụng đối với quan chức từ cấp huyện, châu trở lên

Sau thời vua Thánh Tông, chính sách hồi tỵ không được thể chế hóa thành luật nên bị mai một dần. Đồng thời, trong một hội phong kiến khi luật pháp đều do vua ban xuống nên hiệu lực của phụ thuộc vào nhân người cai trị đất nước, các vị vua kế nghiệp Thánh Tông không ai thể sánh với ông về tài, đức nên không thể hoàn thiện thể chế, quan chế phát huy tinh thần của triều trước. Thời Trung Hưng (15331789), do ảnh hưởng của đời sống chính trị (những cuộc nội chiến liên miên khiến cho thiết chế trung ương tập quyền bị suy yếu, nạn mua quan bán tước, tham quan ô lại xu hướng gia tăng) nên quy định về hồi tỵ bị hạn chế

Nhưng đến triều Nguyễn (18021945), vua Minh Mạng là người thực hiện luật hồi tỵ một cách tích cực triệt để nhất, ông cảm thấy nhức nhối trước thực trạng “các quan chức thông phán, kịch liệt phần nhiều người địa phương, do đó, tình riêng làng nước, khó lòng khỏi sự tự túi sinh ra nhiều tệ hại. Trong cuộc đời hơn 20 năm làm vua của mình, từ năm Canh Thìn (1820) đến cuối năm Canh (đầu năm 1841), ông đã nhiều lần ra chỉ dụ về quy định hồi tỵ. Kế thừa tưởng của Thánh Tông, luật hồi tỵ của triều Nguyễn đã mở rộng phạm vi, đối tượng áp dụng bổ sung những quy định mới

3. Phân loại chế độ hồi tỵ Việt Nam thời phong kiến:

Về cơ bản, chế độ hồi tỵ trong chế độ quan lại tại Việt Nam thời phong kiến cũng bao gồm hồi tỵ về thân thuộc, địa vực (nguyên quán, trú quán) hồi tỵ trong khoa cử

Trong đó, chế độ hồi tỵ trong khoa cử được áp dụng từ sớm nhất. Từ thời , khoa cử trở thành phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu của nhà nước phong kiến Đại Việt. Quốc triều hình luậtđiều 98 đưa ra quy định: Các quan chủ ty chấm thi với người dự thi thân thuộc, cần phải hồi tỵ không từ chối thì phạt 50 roi biếm một , nếu các quan di phong, đằng lục 4 phạm phải thì đều phải phạt 80 trượng. Thi hương thì được giảm một bậc.

Các khảo quan khác (biết sự không hồi tỵ này) cứ chấm quyền thi cùng quan di phong, đăng lục đều được giảm một bậc. Nếu không nên hồi tỵ hồi tỵ thì cũng bị xử tội như thế, từ đó góp phần đảm bảo sự công minh trong khoa cử. Sau này, Triều Nguyễn cũng tiếp tục áp dụng việc hồi tỵ với khoa cử, trong các kỳ thi Hương, thi Hội, quan lại không được về coi thi, chấm thi tại tỉnh quê đẻ, quê mẹ, quê vợ, nơi học hoặc nơi dạy . Trong Đại Nam hội điển sự lệquy định về hồi tỵ rằng: Nếu các khảo quan có người thân thích dự thi trường mình thì phải báo cáo lên cấp trên để tránh đi. Nếu tình không khai báo sẽ bị trọng tội cố ý làm trái

Hồi tỵ về thân thuộc cũng áp dụng rất nghiêm ngặt, không chỉ đối với những người có quan hệ thân thuộc trong gia đình mà còn đối với những người quan hệ về hôn nhân. Dưới thời Thánh Tông đã bắt đầu quy định về hồi tỵ với quan hệ hôn nhân. Năm Bính Ngọ niên hiệu Hồng Đức (1486), ông ra chỉ dụ cấm quan lại được lấy vợ đàn , con gái tại nơi làm quan, nhằm ngăn chặn từ xatình trạng các vợ chỉ huycác ông quan chồng để thao túng quyền hành. Chỉ dụ này của Thánh Tông đã được thể chế hóa chính thức bằng quy định tại Điều 316 của Quốc triều Hình luật: Các quan ty trấn ngoài lấy đàn con gái trong hạt mình, thì xử phạt 70 trượng, biếm ba bãi chức.

Điều 334 Quốc triều Hình luật còn quy định: Các quan ty cùng với những người trưởng biên trấn kết làm thông gia, thì phải xử tội đồ hay lưu phải ly dị, nếu lấy trước rồi thì xử đoản khác. Luật hồi tỵ sau đó còn được vua Thiệu Trị (Nhà Nguyễn) quy định thêm: Cấm quan đầu tỉnh lấy vợ trong trị hạt sợ gia đình vợ nhũng nhiễu; cấm các quan tậu ruộng vườn, nhà cửa trong trị hạt sợ quan hiếp dân để được mua rẻ; cấm giao với đàn con gái trong trị hạt; cấm các quan lại đã về hưu quay lại của công để cầu cạnh...

Vào năm Mậu Thân (1488), Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu cấm những người chú, bác cháu ruột, anh em ruột (đến năm Bính Thìn 1496), quy định được mở rộng đến cả những người anh em con con cậu, con dì con già cả những người thông gia với nhau cùng làm trưởng, nếu đã cùng làm trưởng rồi thì giữ lại một người đứng đắn nhất, thể làm được việc, còn những người khác thì phải về làm dân. Triều Nguyễn (vua Minh Mạng) đưa ra quy định: Các loại dịch (nhân viên) nha môn các bộ Kinh đô các tỉnh cha con, anh em ruột, anh em 

con chó con bác với nhau thì phải tách ra, đổi bổ đi nơi khác. Những người quan hệ thống gia, thầy trò, người cùng quê quán... cũng không được cùng làm quan tại một địa phương, cùng làm việc tại một công sở. dụ năm 1830, Phan Huy Chú được bổ nhiệm Hàn lâm viện tu soạn trong khi đã người anh em đang làm Hàn lâm viện quản thủ kiêm Thượng thư Bộ Lễ. Ông đã dâng biểu đề từ quan.

Hoặc năm 1845, triều đình phê chuẩn cho Án sát tỉnh Quảng Ngãi Đặng Kham cùng với viên Đốc học tỉnh ấy Trần Văn Vy thông gia nên đã cho hồi tỵ. Trần Văn Vy cho đổi đi làm Đốc học tỉnh Tĩnh. Hồi tỵ về thân thuộc còn được mở rộng đối tượng, không chỉ những người quan hệ huyết thống, hôn nhân cả những người mối quan hệ đặc biệt như thầy trò, đồng liêu. Năm Tự Đức thứ nhất (1848), triều Nguyễn chuẩn định cho Nguyễn Trinh tri huyện huyện Chân Lộc tỉnh Nghệ An, cùng với Án sát tỉnh ấy Phạm Thiều là tình thầy trò nên được cho Hồi tỵ. Nguyễn Trinh được đổi bổ làm tri huyện huyện Quảng Xương, tỉnh Quảng Trị

Hồi tvề địa vực (nguyên quán, trú quán) từ thời vua Minh Mạng trở đi ngày càng chặt chẽ. Các quan lại không được làm quan quê hương, nơi trú quán (nơi đã sinh sống một thời gian lâu), hoặc quê vợ, quê mẹ mình, thậm chí cả nơi học tập lúc nhỏ hoặc lúc trẻ tuổi. Các loại mục, thông lại (nhân viên hành chính các phủ, huyện) cũng không được làm việc phủ huyện quê hương mình. Các loại mục, thông lại (nhân viên hành chính) các huyện, phủ người cùng một làng, cũng phải hồi tỵ, phân tán, đổi bổ đi nơi khác.

Ngoài ra còn quy định những người quan hệ thông gia với nhau, thầy trò, có cùng chung quán (cùng quê), ngụ quán (cùng nơi trú)... cũng không được làm quan cùng một chỗ. Theo thống của tác giả Emmanuel Poisson trong tác phẩm Quan lại miền Bắc Việt Nammột bộ máy hành chính trước thử thách (18201918), khi ông khảo sát nguồn gốc địa phương của các quan cấp tỉnh thì chỉ 13% quan làm việc cấp tỉnh người bản tỉnh hoặc trú quán ở tỉnh. Qua thống còn cho thấy, các quan càng lên cao càng làm việc xa quê hương

Trong quá trình thực thi công vụ, một số lĩnh vực đặc biệt cũng phải thực hiện hồi tỵ. Trong lĩnh vực thanh tra, xét x, Nhà Nguyễn đưa ra quy định Các quan thanh tra, xét xử thấy trong vụ án, vụ điều tra người thân quen của mình (con nội, ngoại, bạn thân...) đều phải khai báo hồi tỵ ngay. Các quan từ tham biện (hay biện , quan làm nhiệm vụ vấn về một khía cạnh nào đó một bộ, hay tỉnh) trở lên khi về Kinh đô chầu được định nghị (dự bàn các việc của triều thần), song nếu các cuộc họp đó bàn đến các việc liên quan đến địa phương mình nhậm trị hay việc của bộ mình phụ trách thì phải lui ra“.

Tuy nhiên, một số quan ngành không áp dụng luật Hồi tỵ. dụ, Ty Chiêm hậu là quan chuyên trách về lịch, Ty Hiệu lễ sinh chuyên coi về lễ nghi, Khâm Thiên giám quan chuyên về thời tiết, không phải quan hành chính nên không phải hồi tỵ; Thái y viện quan chuyên chăm sóc sức khỏe cho vua, cần cha truyền con nốiđể làm việc nên cũng không phải hồi tỵ

Về thực hiện giám sát luật hồi t, vua Minh Mạng thực hiện việc này rất sát sao. lần, vào năm Đinh Dậu (1837), triều đình cử Nguyễn Song Thanh Lang trung (quan đứng đầu một quan dưới bộ) làm Quyền Bố chính tỉnh Định Tường, nhưng khi biết vị quan này thời trẻ đã từng học ở đây, quen biết nhiều nên đã cho đổi ông ta về nhậm chức tỉnh Bình Định điều người khác thay thế

thể thấy, trong chế độ quân chủ phong kiến, bên cạnh những chính sách đào tạo, đãi ngộ sử dụng nhân tài, các nhà vua phong kiến đã ban hành thực thi hết sức nghiêm ngặt luật lệ về tuyển dụng, bố trí quản quan chức đương thời. Hồi tỵ một chủ trương, đường lối, chính sách đắc lực quan trọng đã giúp nhà nước phong kiến ngăn chặn được những hiện tượng những người quan hệ họ hàng, thông gia, thầy trò, cùng quê... cùng làm việc tại một địa phương, một công sở, từ đó ngăn chặn đội ngũ quan lại câu kết, lạm dụng chức quyền, địa vị để kéo kéo cánh, đe dọa đến sự cai trị của thiết chế trung ương tập quyền; đồng thời chính sách hồi tỵ còn chế độ phòng ngừa, giám sát quản nghiêm ngặt các quan lại, giúp ngăn chặn tưởng cục bộ (cục bộ dòng họ, cục bộ địa phương), dẫn đến sự hình thành lợi ích nhómcủa một số quan lại để đục khoét của cải của nhà nước, ngăn chặn, hạn chế nạn tham nhũng, quan liêu.

Bên cạnh đó, việc thực thi nghiêm ngặt chế độ hồi tỵ còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quan lại, khắc phục tình trạng tình cảm nể nang, tránh nhau, bao che khuyết điểm của nhau, ngăn ngừa hiện tượng thế của người nhà làm quan đứng đầu tại địa phương, công sở để làm càn..., giúp cho quan lại không bị vướng bận bởi các mối quan hệ hội phức tạp trong quá trình thực thi công vụ, từ đó thể , toàn tâm toàn ý thực hiện nhiệm vụ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com