Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện khởi kiện vụ án dân sự

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện khởi kiện vụ án dân sự? 8 yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện khởi kiện vụ án dân sự?

1. Tính thống nhất, phù hợp của các quy định pháp luật về khởi kiện VADS:

Pháp luật là công cụ điều tiết các quan hệ xã hội. Mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội đều phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm cho các quan hệ xã hội hình thành và phát triển theo một trật tự nhất định, pháp luật phải quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội và cơ chế pháp lý để thực hiện các quyền, nghĩa vụ ấy. Giả thuyết quyền và lợi ích của mình bị tranh chấp hay vi phạm, chủ thể có quyền thực hiện việc khởi kiện nhưng không có nghĩa là họ có quyền khởi kiện bất kỳ ai, kiện đến bất kỳ cơ quan nào, trong một số trường hợp chủ thể có thể không thực hiện được quyền khởi kiện vì lợi ích an ninh quốc gia, cộng đồng xã hội hay còn gọi là giới hạn quyền khởi kiện.

Việc kiện của chủ thể phải dựa trên cơ sở một quan hệ pháp luật nhất định, căn cứ vào các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật này để xác định người mà họ có quyền kiện và kiện đến cơ quan nào, theo những trình tự thủ tục gì. Có thể nói, việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS phụ thuộc một phần rất lớn vào các quy định của pháp luật TTDS, trong đó có các quy định về khởi kiện VADS. “Pháp luật tố tụng dân sự và hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân là hai mặt không thể tách rời của một hệ thống thống nhất đó là quy trình tố tụng dân sự [30]. Pháp luật TTDS là cơ cở, phương tiện pháp lý cho các đương sự khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết các VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có vi phạm hay tranh chấp.

Pháp luật TTDS cũng chính là cơ sở pháp lý cho Tòa án tiến hành các hoạt động thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Nếu quy định của pháp luật TTDS cụ thể, rõ ràng, đầy đủ, thống nhất và có cơ sở khoa học thì việc giải quyết các vụ án án nói chung, việc khởi kiện và thụ lý VADS nói riêng được thuận lợi. Ngược lại, nếu pháp luật TTDS quy định không rõ ràng, không đầy đủ, mâu thuẫn và thiếu cơ sở khoa học thì không những Tòa án gặp khó khăn trong việc xem xét thụ lý, giải quyết các VADS mà các đương sự cũng khó có thể bảo vệ tốt được quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án.

Việc các đương sự thỏa thuận, thương lượng để giải quyết tranh chấp luôn được Nhà nước khuyến khích. Bởi vì, khi các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết tranh chấp thì tranh chấp, mâu thuẫn giữa các đương sự cũng được giải quyết một cách triệt để, tiết kiệm, nhanh chóng nhất và thông thường Nhà nước không phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thoả thuận đó. Xét trên phương diện kinh tế, hòa giải thành trước khi khởi kiện có ý nghĩa rất lớn, các bên sẽ tránh được việc kiện tụng kéo dài, gây hao tiền, tốn của và Toà án cũng không mất thời gian, sức lực cho việc giải quyết vụ kiện. Tuy nhiên, theo góc nhìn đã phân tích ở trên thì việc coi hoà giải tiền tố tụng là một điều kiện bắt buộc trước khi khởi kiện ra Toà án cũng là điều cần phải cân nhắc thận trọng. Cần phải bảo đảm hài hoà giữa quyền khởi kiện và lợi ích của việc hoà giải tiền tố tụng.

2. Điều kiện về vụ việc chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định và việc ghi nhận quyền khởi kiện lại của chủ thể khởi kiện:

Về lý luận thì một vụ án đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền khởi kiện lại đối với vụ án đó nữa. Cách quy định này hoàn toàn phù hợp, xuất phát từ việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm sự ổn định của các quan hệ xã hội, tránh tình trạng chồng chéo, cùng một sự việc mà có nhiều cơ quan cùng giải quyết và quyết định.

Tuy nhiên, nếu quy định trên là một quy định cứng nhắc, thiếu tính mềm dẻo thì quyền khởi kiện đã không được tôn trọng và bảo đảm đúng mức. Do vậy, pháp luật cũng cần có những quy định về các trường hợp ngoại lệ mà người có quyền lợi bị vi phạm vẫn có thể có quyền khởi kiện lại. Chẳng hạn như trường hợp bản án, quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn; yêu cầu xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại…v.v. Chính các ngoại lệ này là đã tạo thêm cơ hội cho họ thực hiện tốt hơn quyền khởi kiện của mình và qua đó khả năng bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ bằng con đường tố tụng được nâng lên. Do đó, việc ghi nhận quyền khởi kiện lại của đương sự trong những trường hợp nhất định cũng chính là một trong những phương thức bảo đảm hiệu quả thực hiện việc khởi kiện.

3. Các cơ chế hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cho chủ thể có thể thực hiện được khởi kiện vụ án:

* Đơn giản hóa và minh bạch hóa các quy định về đơn kiện và chứng cứ, tài liệu nộp kèm theo đơn kiện

Vụ án dân sự phát sinh chủ yếu là do cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện của mình bằng cách nộp đơn. Đơn khởi kiện ở khía cạnh nào đó chính là thể hiện mối quan hệ thủ tục giữa Tòa án và người dân. Do đó, thực hiện chiến lược cải cách các loại thủ tục thì quy định về hình thức, nội dung đơn kiện, chứng cứ kèm theo phải rõ ràng không gây khó khăn hoặc gây phiền hà cho người khởi kiện thực hiện quyền khởi kiện. Pháp luật cần quy định một cách hợp lý các chứng cứ, tài liệu mà đương sự phải xuất trình khi nộp đơn khởi kiện theo hướng đủ để quyết định việc thụ lý chứ không bắt buộc phải nộp toàn bộ các chứng cứ của vụ án.

* Miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí nhằm tạo điều kiện cho người nghèo có thể tiếp cận công lý

Khi một chủ thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án can thiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp của mình bị xâm hại thì cần phải bỏ ra một khoản chi phí để Tòa án giải quyết VADS. Do vậy, pháp luật quy định đương sự phải chịu một phần kinh phí mà Nhà nước cấp cho Tòa án thực hiện các hoạt động đó. Để tránh việc kiện không có căn cứ thì pháp luật thường quy định người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Do đó, Nhà nước căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể như thu nhập bình quân đầu người, chi phí tố tụng…) để có thể áp dụng một mức tạm ứng án phí hợp lý để vừa bảo đảm cho hoạt động của Tòa án vừa không làm hạn chế con đường đến với công lý của người dân. Ngoài ra, một trong những cơ chế hỗ trợ hiệu quả nhất là cần quy định những trường hợp miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí nhằm tạo điều kiện cho người thu nhập thấp có thể thực hiện được quyền khởi kiện của mình.

* Vấn đề kế thừa quyền khởi kiện và tạm đình chỉ giải quyết vụ án để xác định chủ thể tiếp tục thực hiện quyền khởi kiện

Tạm đình chỉ giải quyết VADS là việc tòa án quyết định tạm dừng việc giải quyết VADS khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Tạm đình chỉ giải quyết VADS là tạm thời ngừng việc giải quyết VADS chứ không phải ngừng hẳn việc giải quyết VADS. Tính chất gián đoạn này sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được khôi phục khi nguyên nhân tạm đình chỉ không còn nữa. Các đương sự có quyền khởi kiện, phản tố, yêu cầu độc lập nhưng khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS sẽ có thể xuất hiện những trường hợp làm cho việc thực hiện các quyền này bị gián đoạn. Đó là trường hợp đương sự là cá nhân chết, cơ quan, tổ chức bị chia, tách, sáp nhập, giải thể nhưng chưa có chủ thể kế thừa tham gia tố tụng hoặc đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự nhưng chưa xác định được người đại diện, chấm dứt đại diện mà chưa có người thay thế. Trong những trường hợp này thì các quy định về tạm đình chỉ giải quyết VADS là một giải pháp để xác định chủ thể kế thừa quyền khởi kiện và cũng là nhằm bảo đảm quyền khởi kiện sẽ được tiếp tục thực hiện trong quá trình giải quyết VADS.

* Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện; quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu liên quan độc lập

Vụ án dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở có yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Dựa trên nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, nguyên đơn hoàn toàn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình. Xét cho cùng, VADS do Tòa án thụ lý giải quyết là nhằm đạt đến mục đích và nguyện vọng của nguyên đơn, giải quyết mối bất hòa trong quan hệ của các bên. Tuy nhiên, xét trên phương diện lý luận nhà nước và pháp luật: quyền luôn đi liền với nghĩa vụ. Hay nói khác đi, mặc dù có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng nó phải đặt trong lợi ích của các chủ thể khác, bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên.

Nếu chúng ta coi nguyên đơn có quyền khởi kiện để làm phát sinh VADS nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của mình với vai trò chủ động thì cũng phải ghi nhận quyền phản tố (kiện ngược lại) của bị đơn. Tuy nhiên, quyền phản tố này phải được thực hiện trong mối liên hệ với bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của nguyên đơn và để nguyên đơn có thể chủ động chuẩn bị chứng cứ, tài liệu nhằm bảo vệ mình và phản bác lại yêu cầu bị đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặc dù không chủ động đi kiện nhưng việc giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn thì có thể ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của họ. Để giải quyết vụ án toàn diện, triệt để đòi hỏi cần thiết có sự tham gia của người thứ ba này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ghi nhận, quyền đưa ra yêu cầu độc lập là điều kiện để bảo đảm quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của họ.

* Ghi nhận quyền khiếu nại đối với việc trả lại đơn khởi kiện và quyền kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án

Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, cũng như thiết lập cơ chế xem xét lại bản án quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục đặc biệt là quy trình tố tụng khoa học và tiến bộ nhằm cho phép các chủ thể có thể kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án, thể hiện tính dân chủ trong tố tụng, bảo đảm và tạo cơ hội để quyền khởi kiện của đương sự thực thi có hiệu quả. Trả lại đơn kiện hay đình chỉ vụ án không đúng sẽ làm cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được Toà án xem xét đến và quyền khởi kiện sẽ không được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Do đó, để bảo đảm quyền khởi kiện trong những trường hợp này thì pháp luật cần phải ghi nhận quyền khiếu nại của đương sự đối với hành vi trả lại đơn kiện của Tòa án và quyền kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án. Trên cơ sở các quyền này người có thẩm quyền, Tòa án cấp trên sẽ xem xét lại tính đúng đắn của việc trả lại đơn khởi kiện hoặc quyết định đình chỉ giả quyết vụ án.

4. Những yếu tố liên quan đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng:

Sự minh bạch, chi tiết về nhiệm vụ của người tiến hành tố tụng ảnh hưởng không nhỏ đến việc khởi kiện. Khi tham gia TTDS, đương sự không những cần phải nắm rõ các quyền tố tụng của mình mà còn phải hiểu rõ các trình tự, thủ tục để thực hiện các quyền tố tụng đó. Bởi, có những quyền tố tụng muốn được thực hiện phải thể hiện cụ thể bằng văn bản và được sự đồng ý, chấp nhận của người tiến hành tố tụng.

Nếu pháp luật tố tụng không quy định rõ ràng, cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng thì đương sự sẽ không biết được người tiến hành tố tụng có trách nhiệm như thế nào trong việc đảm bảo thực hiện quyền tố tụng của họ dẫn tới ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền tố tụng của đương sự. Chính vì vậy, cần phải xây dựng trong pháp luật những quy định cụ thể và có các văn bản hướng dẫn chi tiết về nghĩa vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng để góp phần vào việc nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đồng thời, là cơ sở quan trọng để quyền khởi kiện của đương sự được đảm bảo thực hiện.

Pháp luật TTDS tuy đóng vai trò quan trọng đối với hiệu quả thực hiện các hoạt động tố tụng nói riêng và hoạt động khởi kiện và thụ lý VADS nhưng nếu tách riêng pháp luật TTDS với những chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc biệt là cán bộ, Thẩm phán Tòa án thì hiệu quả sẽ không đạt được. TTDS là phương tiện để đạt được công lý, nên để so sánh, đánh giá luật tố tụng dân sự của mỗi quốc gia phải xem xét đánh giá tổng thể cả luật tố tụng và luật nội dung, mức độ công nhận và bảo vệ các quyền, địa vị của Tòa án trong quốc gia đó, chứ không chỉ đánh giá các thủ tục một cách riêng rẽ.

Các quy định của pháp luật TTDS về khởi kiện và thụ lý VADS dù có đầy đủ, rõ ràng, cụ thể, khoa học nhưng nếu nó không được các cơ quan tiến hành TTDS thực hiện nghiêm chỉnh thì các quy định đó cũng trở nên vô nghĩa. Khi nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện, bị đơn thực hiện quyền phản tố, yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền yêu cầu độc lập tại Tòa án thì cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng là những người có thẩm quyền tiếp nhận và xem xét có thụ lý hay không thụ lý đơn kiện của các chủ thể nêu trên.

Do đó, cán bộ Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện đúng các quy định pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS. Khởi kiện và thụ lý VADS bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như nhận đơn khởi kiện, xử lý đơn khởi kiện, khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, vào sổ thụ lý vụ án. Nếu cán bộ, Thẩm phán được phân công nhiệm vụ nghiên cứu, xem xét đơn khởi kiện có đầy đủ kiến thức pháp luật, kỹ năng, kinh nghiệm sẽ bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS, đơn khởi kiện của đương sự sẽ được xem xét, thụ lý giải quyết theo đúng quy định pháp luật và ngược lại sẽ có những sai sót như chuyển đơn khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định pháp luật…, khiến cho đương sự không thể thực hiện được quyền tiếp cận Tòa án.

Do vậy, để bảo đảm việc thực hiện khởi kiện, đòi hỏi Thẩm phán phải là người được đào tạo, bồi dưỡng bài bản, thường xuyên cả về mặt lý thuyết và trau dồi kinh nghiệm thực tiễn, kịp thời cập nhật thông tin, tri thức để áp dụng vào thực tiễn xem xét, giải quyết các vụ án dân sự nói chung và việc xem xét đơn khởi kiện, thụ lý VADS nói riêng.

Bên cạnh yếu tố năng lực chuyên môn thì tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của cán bộ, Thẩm phán trong việc nhận và xử lý đơn khởi kiện cũng là

một trong những yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện khởi kiện và thụ lý VADS tại Tòa án. Qua việc nghiên cứu cho thấy, quyền được tiếp cận Tòa án một cách thực tế, hữu hiệu và quyền được xét xử kịp thời trong một thời hạn hợp lý của đương sự là một trong những quyền tố tụng cơ bản đã được pháp luật quốc tế và quốc gia thừa nhận. Công lý và thủ tục tố tụng hiện nay đều chịu sự

chi phối, tác động mạnh mẽ của công nghệ và nhu cầu tăng hiệu quả, giảm chi phí. Hiệu quả của TTDS đã trở thành một một thách thức lớn đối với các cải cách pháp luật và là nguyên tắc chủ đạo của TTDS ở nhiều nước, đặc biệt là các nước theo truyền thống Common law. Các nước này đều nhận thức được hạn chế của tố tụng tranh tụng là thời gian giải quyết kéo dài, chậm trễ, chi phí tốn kém sẽ làm cản trở quyền tiếp cận công lý, ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ, thực thi các quyền dân sự. Sự chậm trễ và tốn kém làm suy giảm niềm tin của công dân đối với Tòa án, gây ra sự căng thẳng, mệt mỏi về tâm lý và tài chính của đương sự.

Do đó, nếu cán bộ Tòa án, Thẩm phán được phân công xem xét và thụ lý đơn khởi kiện luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức tốt sẽ giải quyết vụ việc theo đúng thời hạn, đúng quy định pháp luật, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện khởi kiện và thụ lý VADS tại Tòa án. Ngược lại, nếu tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của cán bộ Tòa án, Thẩm phán chưa cao sẽ dẫn tới những tồn tại trong quá trình xem xét đơn khởi kiện và thụ lý VADS, chẳng hạn như tham nhũng; vi phạm về thủ tục nhận đơn, thời hạn xem xét, thụ lý VADS, thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị…

5. Cơ chế kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện VADS của VKS cùng cấp:

Tòa án là một trong các cơ quan tư pháp, được thực hiện quyền lực nhà nước để xét xử các VADS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. Trong hoạt động giải quyết các VADS, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật, áp dụng đúng pháp luật để bảo đảm việc giải quyết các VADS đúng pháp luật và khách quan, toàn diện. Về mặt nguyên lý, quyền lực mà không bị giám sát, kiềm chế sẽ dễ dẫn tới lạm quyền. Đối với hoạt động giải quyết các VADS của Tòa án nói riêng càng cần thiết phải có sự giám sát, kiểm sát vì hoạt động xét xử của Tòa án dễ bị thiên lệch, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Việc giải quyết VADS không chỉ liên quan đến các lợi ích về vật chất mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống tinh thần của đương sự. Nếu việc giải quyết VADS tùy tiện, chủ quan, duy ý chí thì không những không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, để hoạt động giải quyết các VADS của Tòa án tiến hành có hiệu quả thì cần phải được giám sát, kiểm sát chặt chẽ. VKS được ví như “cánh tay nối dài của Quốc hội”, thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, theo đó mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng đều phải chịu sự kiểm sát của VKS.

Việc ghi nhận chức năng kiểm sát hoạt động thụ lý VADS là điều kiện cần thiết để việc thực hiện khởi kiện và thụ lý VADS được đúng pháp luật. Nếu VKS thực hiện tốt chức năng này thì sẽ hạn chế tối đa việc trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ việc giải quyết VADS không đúng pháp luật. Ngoài ra, thông qua hoạt động kiểm sát các hoạt động TTDS trong suốt quá trình giải quyết VADS, VKS sẽ kịp thời phát hiện được các vi phạm pháp luật để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị nhằm hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra cho đương sự.

Ngược lại, nếu VKS thực hiện chưa tốt chức năng kiểm sát các hoạt động TTDS thì sẽ không phát hiện được những trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện hoặc thụ lý VADS không đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, kiểm sát hoạt động giải quyết các VADS của Tòa án và những người tham gia tố tụng là để bảo đảm Tòa án giải quyết VADS khách quan, công bằng, chính xác và đúng pháp luật cũng như để đương sự thực hiện đúng quy định của pháp luật chứ không phải kiểm sát là can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án hoặc xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân của đương sự.

6. Hoạt động hỗ trợ đương sự khởi kiện VADS tại Tòa án của tổ chức LVN Group, trợ giúp pháp lý Nhà nước:

Khi thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án, các chủ thể đều mong muốn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy vậy, vì những lý do khác nhau trên thực tế, không phải bao giờ họ cũng tự thực hiện được đầy đủ và có hiệu quả nhất các quyền và nghĩa vụ TTDS nên cần thiết phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ pháp lý của LVN Group, trợ giúp viên pháp lý Nhà nước nhằm giúp đương sự khắc phục được nhận thức không đầy đủ về pháp luật, xử sự lúng túng khi thực hiện quyền khởi kiện.

Ngoài ra, sự hỗ trợ pháp lý của LVN Group, trợ giúp viên pháp lý đối với người khởi kiện còn tạo được sự cân bằng trong việc tham gia tố tụng giữa các bên đương sự. Họ là những người hiểu biết và nắm vững pháp luật, có kinh nghiệm tham gia tố tụng và sứ mệnh của họ là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội, còn các đương sự là người bất đắc dĩ mới phải tham gia tố tụng tại Tòa án nên sẽ không thể có được những điều kiện và yếu tố nêu trên.

Theo các nhà nghiên cứu pháp lý, “nếu coi pháp luật hoặc pháp chế hoặc trật tự pháp luật là vòng tròn thì cả LVN Group, Viện kiểm sát và Tòa án đều đứng ở trong đó, nhưng Viện kiểm sát và Tòa án đứng về phía Nhà nước còn LVN Group đứng về phía khách hàng”. Một hệ thống tố tụng có thể có những quy tắc rất hay, LVN Group có vai trò tạo nên một sự chế ước hữu hiệu để góp phần bảo đảm việc thực hiện đúng các quy định pháp luật về khởi kiện VADS. Sự có mặt và hỗ trợ của LVN Group đối với các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện có tác dụng làm cho cán bộ, Thẩm phán thận trọng, khách quan, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đương sự hơn trong quá trình nhận và xem xét đơn khởi kiện.

7. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức có liên quan:

Khi quyền và lợi ích của chủ thể bị coi là xâm phạm hoặc tranh chấp, đa phần chủ thể có thể trực tiếp thực hiện quyền khởi kiện của mình đến tòa án có thẩm quyền, trong một số trường hợp các vụ việc theo quy định của pháp luật tố tụng hoặc dân sự phải có xác nhận của cơ quan nhà nước khác thì vụ việc mới được xem xét thụ lý giải quyết, chủ thể mới được thực hiện quyền khởi kiện của mình.

Điều này đã ảnh hưởng đến việc khởi kiện của chủ thể. Chẳng hạn như theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành thì các tranh chấp liên quan đến ai là người có quyền sử dụng đất thì thủ tục tiền tố tụng bắt buộc phải được thực hiện trước khi khởi kiện ra tòa án là phải tiến hành hòa giải ở cơ sở, cụ thể là vụ việc phải được tiến hành tại UBND cấp xã. Khi tiếp nhận đơn nếu UBND cấp xã nhanh chóng xem xét, nắm bắt nội dung tranh chấp, hoạt động tiến hành hòa giải được thực hiện ngay sau đó thì vụ việc được sớm xử lý.

Ngược lại, nếu vụ việc giậm chân tại chỗ ở UBND cấp xã thì việc khởi kiện của chủ thể đương nhiên bị ảnh hưởng và vụ án cũng không thể nhanh chóng được thụ lý, giải quyết tại Tòa án. Thực tế chưa có một cơ chế nào quy định trình tự, thủ tục, thời hạn tiến hành việc hòa giải nên không có một cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cán bộ, cơ quan nhà nước trong thực hiện hòa giải ở cơ sở….

Một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc khởi kiện của chủ thể đó là chứng cứ. Pháp luật quy định rõ các đương sự được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế, rất khó để các chủ thể này tiếp cận được tài liệu chứng cứ từ phía các cơ quan có liên quan.

Chẳng hạn như đối với yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thì thông thường người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ như thông tin về thửa đất, trích lục thửa đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng khi liên hệ với các cơ quan có liên quan như UBND xã, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để được sao chép hoặc cung cấp thì dường như các cơ quan này đều tìm cách từ chối hoặc gây khó khăn, trì hoãn việc cung cấp chứng cứ.

Cá biệt có trường hợp công dân phải đi lại UBND xã nhiều lần mới được cán bộ địa chính cho sao lục các tài liệu liên quan. Nếu như pháp luật vẫn còn thiếu vắng những quy định về biện pháp, chế tài xử lý đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp các chủ thể này không thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của đương sự thì việc khởi kiện VADS tại Tòa án sẽ bị ảnh hưởng bởi các chủ thể này.

Hiệu quả của công tác thi hành án dân sự cũng là vấn đề cần được quan tâm và ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề bảo đảm việc khởi kiện VADS. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, những phán quyết trong bản án có được thực thi nghiêm túc trong thực tế hay không sẽ ảnh hưởng đến niềm tin công lý của công dân. Nếu bản án, quyết định có hiệu lực được thi hành trên thực tế, tạo niềm tin pháp lý, công dân khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp dân sự sẽ tìm đến pháp luật, tìm đến tòa án để phân xử và ngược lại việc khởi kiện và thụ lý VADS sẽ không có khả năng thực thi khi họ không tin vào công lý, vào hoạt động của cơ quan nhà nước.

8. Trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật về khởi kiện:

Khi tham gia vào quá trình giải quyết VADS ngay từ khi thực hiện việc khởi kiện, sự thiếu hiểu biết pháp luật TTDS nói chung, pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS nói riêng sẽ gây khó khăn cho chính đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Khi thực hiện việc khởi kiện đương sự phải xác định rõ quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm hay tranh chấp là cái gì? Ai là người bị coi là đã xâm phạm hay tranh chấp đối với chủ thể? Khởi kiện đến cơ quan nào? Theo trình tự thủ tục gì?

Nếu có khả năng nhận thức rõ được vấn đề trên thì chủ thể thực hiện việc khởi kiện một cách dễ dàng. Tuy nhiên, trên thực tế do trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên người đi kiện đã xác định và khởi kiện không đúng người mà mình có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật hoặc khởi kiện loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Chẳng hạn, nguyên đơn kiện về hợp đồng ký kết với công ty nhưng lại không khởi kiện công ty – chủ thể có quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng mà khởi kiện chi nhánh của công ty; chủ sở hữu kiện đòi động sản phải đăng ký quyền sở hữu đang bị người thứ ba chiếm hữu trái pháp luật nhưng lại không khởi kiện người đang chiếm hữu mà khởi kiện người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản, người bị thiệt hại kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng lại khởi kiện người không có trách nhiệm phải bồi thường vv…

Hoặc có trường hợp đương sự khởi kiện loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; khởi kiện khi chưa có đủ điều kiện khởi kiện… Bên cạnh đó, ý thức tuân thủ pháp luật về khởi kiện VADS chưa cao sẽ gây trở ngại, khó khăn cho chính họ hoặc cho đương sự khác, cho Tòa án khi thực hiện việc khởi kiện VADS.

Theo dõi chúng tôi trên
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com