Nội dung bản án hình sự sơ thẩm theo quy định BLTTHS 2015

Nội dung bản án hình sự sơ thẩm theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Phần mở đầu, phần nội dung, phần quyết định trong bản án hình sự?

Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13. Theo Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội thì Bộ luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Tuy nhiên, tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016, Quốc hội đã quyết định lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật này đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành.

Bản án hình sự sơ thẩm được quy định cụ thể tại khoản 1, 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:

“1. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng xét xử.

2. Bản án sơ thẩm phải ghi rõ:

a) Tên Tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số của bản án và ngày tuyên án; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, dân tộc, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện của bị cáo; họ tên của người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị hại, đương sự, người đại diện của họ; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín, thời gian và địa điểm xét xử;

b) Số, ngày, tháng, năm của bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố; tên Viện kiểm sát truy tố, hành vi của bị cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự và mức hình phạt, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo; xử lý vật chứng;

c) Ý kiến của người bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập;

d) Nhận định của Hội đồng xét xử phải phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có tội hay không và nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật hình sự và của văn bản quy phạm pháp luật khác được áp dụng, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật;

đ) Phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra;

e) Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; 

f) Quyết định của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án. Trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì ghi rõ quyết định đó” 

Về nội dung bản án hình sự sơ thẩm được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 

1. Phần mở đầu bản án hình sự sơ thẩm:

Là phần phải thể hiện đầy đủ các nội dung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, ghi thông tin của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; thời gian, địa điểm tiến hành phiên tòa, thông tin về quyết định đưa vụ án ra xét xử; phiên tòa xét xử công khai hay xét xử kín, thời gian và địa điểm xét xử.

Về cách ghi tên và chức danh của những người tiến hành tố tụng khác: đối với Thư ký phiên tòa, ngoài việc ghi rõ, đầy đủ họ tên thì phải ghi thêm ngạch chức danh (nếu Thư ký phiên tòa giữ ngạch Thư ký Tòa án thì ghi thêm nội dung “Thư ký Tòa án”, ngạch Thẩm tra viên thì ghi thêm “Thẩm tra viên”); đối với Kiểm sát viên, ngoài việc phải ghi rõ, đầy đủ họ tên thì phải ghi thêm ngạch Kiểm sát viên như “Kiểm sát viên sơ cấp”, “Kiểm sát viên trung cấp” hoặc “Kiểm sát viên cao cấp”; Bổ sung thành phần về dân tộc của bị cáo; bị cáo là pháp nhân thương mại; số chứng minh nhân dân/số hộ chiếu/số căn cước công dân của bị cáo.

Việc bổ sung nội dung này góp phần thể hiện chính xác, đầy đủ những đặc điểm riêng về nhân thân của bị cáo; đồng thời bổ sung một chủ thể mới phải chịu trách nhiệm hình sự là pháp nhân thương mại; Sửa đổi cụm từ “Trú tại” thành “Nơi cư trú” của bị cáo cho phù hợp với quy định của Luật cư trú; Bổ sung việc ghi cụ thể họ tên của những người tham gia tố tụng khác, những người được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa mà trước đây nội dung này không phải là bắt buộc.

Có thể thấy rằng, mặc dù phần này mang nhiều ý nghĩa hình thức nhưng lại là những quy định, nội dung về tố tụng. Vì vậy, việc ghi chính xác, đầy đủ các chi tiết, thông tin trong phần mở đầu của bản án là vô cùng cần thiết. Bởi nếu ghi thiếu, ghi sai thì khả năng bản án bị hủy án là rất cao.

2. Phần nội dung bản án hình sự sơ thẩm:

Phần này gồm “Nội dung vụ án” và “Nhận định của Hội đồng xét xử”. 

2.1. Phần nội dung vụ án:

Về phần “Nội dung vụ án” được dùng thay cho “Nhận thấy” theo mẫu hiện hành. Tuy nhiên, theo quy định mới thì “Nội dung vụ án” phải thể hiện đầy đủ các nội dung quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chứ không theo kết cấu, trình tự như mẫu hiện hành. Đây là một trong những điểm mới rõ nét nhất trong việc viết bản án hình sự sơ thẩm. Nội dung này tùy thuộc cách sắp xếp của từng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, để tăng cường tính chủ động, khoa học trong việc thể hiện nội dung vụ án, bảo đảm mạch lạc, ngắn gọn, dễ hiểu. Theo đó, nội dung vụ án phải tổng hợp đầy đủ, chính xác từng vấn đề cụ thể qua các nguồn thông tin, các giai đoạn tố tụng.

Sau quá trình nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Thẩm phán phải tự mình tổng hợp diễn biến của vụ án, xác định được hành vi phạm tội của bị cáo. Tóm tắt, mô tả hành vi phạm tội của bị cáo theo bản cáo trạng, các lời khai và chứng cứ khác mà không chép toàn văn nội dung bản cáo trạng. Mặc dù là tóm tắt, nhưng phải thể hiện được đầy đủ về thời gian, không gian, địa điểm thực hiện tội phạm, diễn biến hành vi thực hiện tội phạm, động cơ, mục đích, thủ đoạn của người phạm tội và hậu quả của tội phạm. Việc tóm tắt, mô tả hành vi phạm tội của bị cáo qua các lời khai, chứng cứ như biên bản về phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án; các lời khai, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan; biên bản đối chất; kết luận giám định; biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện phạm tội và ý kiến của bị cáo, người đại diện (nếu có), người bào chữa, bị hại hoặc người đại diện cho người bị bại, người đại diện cho cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do bị cáo gây ra, người bảo vệ quyền lợi cho bị hại, bị hại; đương sự, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập;

Tùy từng vụ án cụ thể mà các vấn đề khác như kết luận giám định, kết luận định giá, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bị cáo hoặc người có trách nhiệm bồi thường, xử lý vật chứng của vụ án cũng được nêu tóm tắt, phản ánh khách quan về nội dung vụ án như: Đối với vụ án trộm cắp tài sản mà vật chứng là tài sản (xe máy, ô tô, điện thoại…), thì phải có cả kết luận định giá tài sản. Đối với vụ án về ma túy thì phải nêu rõ kết luận giám định… Trường hợp, vụ án có nhiều nội dung quan trọng thì cần phải nêu lần lượt từng vấn đề, cụ thể, rõ ràng. Sau đó, tổng hợp ý kiến của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng về kết luận định giá, giám định, về xử lý vật chứng, đã bồi thường hay chưa bồi thường…của quá trình giải quyết vụ án từ giai đoạn điều tra đến tại phiên tòa.

Việc trích dẫn bản Cáo trạng hoặc Quyết định truy tố; phải có tên Viện kiểm sát truy tố, hành vi của bị cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố; điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự và mức hình phạt, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo; xử lý vật chứng.

Sau khi trích dẫn bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ghi tóm tắt nội dung luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ theo các điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng và các nội dung khác liên quan đến việc giải quyết vụ án; lời khai của bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp (nếu có), người làm chứng tại phiên tòa; ý kiến của người bào chữa, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; ý kiến của người giám định, người định giá tài sản; ý kiến của người làm chứng, người chứng kiến và những người khác được Tòa án triệu tập đến phiên tòa (nếu có). Cuối phần này là lời nói sau cùng của bị cáo nếu bị cáo có nói lời sau cùng.

Như vậy, có thể thấy phần “Nội dung vụ án” không chỉ tổng hợp đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng như phần “Nhận thấy” của bản án hình sự sơ thẩm hiện hành mà còn xem xét ý kiến của người tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập, với yêu cầu cụ thể chi tiết hơn rất nhiều. Việc tổng hợp toàn diện này thể hiện tính khách quan, toàn diện, minh bạch hơn trong việc xét xử, theo đó, mọi chứng cứ đều phải được đưa ra xem xét khách quan, toàn diện và công khai tại phiên tòa, thể hiện rõ tư tưởng đề cao tranh tụng trong tố tụng hình sự, lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ chủ yếu để Tòa án ra phán quyết.

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử khẳng định quyền bình đẳng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người | bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận trước Tòa án; quy định rõ mọi chứng cứ, tình tiết của vụ án, xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại và việc xử lý vật chứng đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

Bản án quyết định của Tòa án được ban hành phải căn cứ và kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa. Bởi không có tranh tụng và không bảo đảm tranh tụng khách quan, bình đẳng thì việc giải quyết vụ án luôn có tính phiến diện, định kiến, một chiều và luôn tiềm ẩn những oan, sai mà điều đó trong hoạt động tố tụng hình sự luôn để lại những hậu quả nặng nề nhất vì nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của con người, của công dân.

2.2. Phần nhận định của Hội đồng xét xử:

Về phần “Nhận định của Hội đồng xét xử:” được dùng thay cho phần “Xét thấy” của mẫu bản án hiện hành. Tuy nhiên, theo quy định mới thì phần này phải thể hiện đầy đủ các nội dung quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Các nhận định (đánh giá) của Hội đồng xét xử phải tổng hợp được các nội dung trong phần “Nội dụng của vụ án” theo từng vấn đề cụ thể. Trường hợp phải trích dẫn để chứng minh cho lập luận của Hội đồng xét xử thì phần trích dẫn phải để trong ngoặc kép, ghi rõ số bút lục được trích dẫn.

Những điểm mới trong phần này có thể kể đến như: Phần nhận định của Hội đồng xét xử trong bản án hình sự sơ thẩm cũng giống như bản án dân sự, hành chính sơ thẩm, các đoạn đều phải được đánh số thứ tự theo dãy số tự nhiên) để người đọc dễ nhận biết từng vấn đề của vụ án; đồng thời tạo thuận lợi cho việc trích dẫn, phát triển và áp dụng án lệ. Chủ thể thực hiện nhận định trong bản án là “Hội đồng xét xử”, mà không phải “Tòa án” như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

Hội đồng xét xử phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội. Trong phần này phải xác định, ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với cấu thành tội phạm đã được quy định trong pháp luật hình sự. Nhìn chung, trong cấu thành tội phạm cụ thể đã nêu dấu hiệu về hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến từng loại khách thể trực tiếp và hậu quả do hành vi phạm tội quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự nên khi xem xét về tội phạm cụ thể phải đánh giá đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm (dấu hiệu về khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan) để xác định chính xác tội danh đó thuộc nhóm khách thể nào bị xâm hại, chủ thể có năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay không, hành vi khách quan là hành vi gì, hậu quả như thế nào và ý thức chủ quan ra sao. Khi xác định bị cáo phạm tội gì thì phải nêu rõ đặc trưng hành vi bị cáo đã thực hiện quy định trong cấu thành cơ bản.

Nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật Hình sự và của văn bản quy phạm pháp luật khác được áp dụng. Hội đồng xét xử phải xác định, ghi nhận về mặt pháp lý, sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với cấu thành tội phạm đã được quy định cụ thể tại điều luật nào của Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm như về khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan hay không. Khi xác định bị cáo phạm tội gì thì phải nêu rõ đặc trưng hành vi của bị cáo đã thực hiện quy định trong cấu thành cơ bản.

Việc nêu các đặc trưng dấu hiệu hành vi nêu trên là nhằm xác định chính xác tội danh, không nhầm lẫn hành vi phạm tội này với hành vi phạm tội khác như hành vi lừa đảo và hành vi lạm dụng tín nhiệm giống nhau là đều có hành vi chiếm đoạt nên cần xác định bị cáo có ý định chiếm đoạt ở thời điểm nào (trước hay sau khi chiếm đoạt tài sản) thì phải phân tích, nhận định rõ trong bản án để xác định đúng tội danh; hành vi cướp tài sản với hành vi cưỡng đoạt tài sản thì việc dùng ngay tức khắc vũ lực với đe dọa sẽ dùng vũ lực khác nhau ở chỗ nào để xác định cho đúng tội danh.

Trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người đại diện cho bị cáo (nếu có), người bào chữa, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại (bao gồm cả cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do bị cáo gây ra), người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra phải ghi rõ lý do không chấp nhận.

Trường hợp bị cáo không có tội thì phải nêu rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng là căn cứ để quy định loại hình phạt, khung hình phạt. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thường được thể hiện: Xem xét đến lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội; phương tiện phạm tội; thủ đoạn phạm tội; thời gian và địa điểm phạm tội; khách thể xâm hại…

Xem xét đến hậu quả do hành vi phạm tội gây ra bao gồm hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và hậu quả phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Trong trường hợp có đồng phạm cần xem xét tính chất của đồng phạm có ít người hay có nhiều người tham gia, vị trí, vai trò của từng người trong đồng phạm để cá thể hoá trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.

Trường hợp phạm tội có tổ chức cần xem xét tính chất của tổ chức có ít người hay có nhiều người tham gia; mức độ cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm; vị trí, vai trò của từng người khi thực hiện tội phạm để cá thể hóa trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Bên cạnh đó phải xem xét nhân thân của bị cáo để Hội đồng xét xử xác định hướng phải xử lý như thế nào trong từng trường hợp chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị và ra căn cứ đưa quyết định của mình.

Hội đồng xét xử phải đánh giá, xem xét xử lý vật chứng có trong vụ án theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật Hình sự. Căn cứ, lý do của việc xử lý vật chứng của Hội đồng xét xử. Nếu vật chứng bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy thì phải nêu rõ tại sao bị tịch thu, tiêu hủy….

Hội đồng xét xử đánh giá về vấn đề bồi thường thiệt hại (nếu có): Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”. Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ, một phần hay không chấp nhận khoản bồi thường mà bị cáo, bị hại, đại diện của bị hại, LVN Group bào chữa…có yêu cầu thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật nào để giải quyết.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử đánh giá về những vấn đề khác (nếu có): Phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới (nếu có). Trường hợp Hội đồng xét xử quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Hội đồng chỉ phân tích, đánh giá về căn cứ cần khởi tố vụ án, mà không quyết định khởi tố vụ án trong bản án, Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án riêng. Kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội, phòng ngừa tội phạm; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản pháp luật (nếu có). Xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp bảo đảm nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc thấy không còn cần thiết (nếu có).

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể thẩm quyền của Tòa án trong việc: xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét, kết luận tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, tài liệu, chứng cứ do LVN Group, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp (Điều 252 và Điều 317); tính hợp pháp trong những ý kiến mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trình bày tại phiên tòa.

Tất cả các hành vi của người tiến hành tố tụng, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, phải được đánh giá, xem xét có đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hay không. Căn cứ ban hành, nội dung của các quyết định tố tụng đó có phù hợp (các quyết định tạm giữ, tạm giam; quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm; quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn…).

Xem xét, quá trình điều tra, truy tố, xét xử các hành vi của người tiến hành tố tụng, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng có bị khiếu nại hoặc có ý kiến gì không. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử đánh giá chung về các hành vi, quyết định đó hợp pháp hay không hợp pháp. Hành vi, quyết định nào không hợp pháp thì phải nhận xét, đánh giá cụ thể, chỉ rõ căn cứ cho nhận định này.

Việc tách biệt phần “Nội dung vụ án” với phần “Nhận định của Hội đồng xét xử” trong mẫu bản án hình sự sơ thẩm theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sẽ hạn chế được một số thiếu sót trong thực tiễn hiện nay về cách viết bản án trong phần “Nhận thấy” và “Xét thấy”, trách nhầm lẫn, trùng lặp và không rõ ràng.

3. Phần quyết định trong bản án hình sự sơ thẩm:

Theo quy định mới thì “Quyết định” của bản án phải giải quyết đầy đủ các vấn đề quy định tại điểm g khoản 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (các vấn đề phải giải quyết trong phần này tương ứng với các vấn đề phải giải quyết khi Hội đồng xét xử nghị án theo khoản 3 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Căn cứ vào phân tích, đánh giá tại phần “Nhận định của Hội đồng xét xử”, Hội đồng xét xử ra quyết định phù hợp; cụ thể:

Trường hợp bị cáo phạm tội thì áp dụng điểm, khoản, điều nào của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo phạm tội gì, quyết định hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung nếu có) và các vấn đề khác tương tự như bản án hình sự sơ thẩm hiện hành.

Trường hợp bị cáo không có tội thì không giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ ngay trong bản án mà phải ghi “… và việc giải quyết khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo theo quy định của pháp luật” – đây là nội dung mới được bổ sung để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người không có tội. Tuy vậy, để giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan không thể thực hiện ngay tại phiên tòa, mà cần phải thực hiện nhiều hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ theo các thủ tục khác nhau và cần nhiều thời gian hơn. Do đó, cần phải được giải quyết bằng trình tự, thủ tục khác và được thực hiện sau khi Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội.

Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không căn cứ áp dụng điểm, khoản, điều nào Bộ luật Hình sự. Trường hợp bị cáo không thuộc trường hợp nêu trên, Hội đồng xét xử áp dụng điểm, khoản, điều nào Bộ luật Hình sự về tình tiết tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; điểm, khoản, điều của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định pháp luật cụ thể khác làm căn cứ để xác định hình phạt chính đối với bị cáo và hình phạt bổ sung (nếu có).

Trường hợp phải giải quyết về dân sự thì phải ghi rõ áp dụng điểm, khoản, điều nào của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, buộc bị cáo hoặc đại diện của bị cáo (nếu có) phải bồi thường cho bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (ghi họ tên của bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án) số tiền (ghi bằng số và chữ viết); nếu tách phần dân sự để giải quyết theo tố tụng dân sự thì ghi tách phần dân sự giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có yêu cầu.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật, tùy theo mối quan hệ của vật chứng trong vụ án, tùy theo giá trị, giá trị sử dụng của vật chứng, quan điểm của chủ sở hữu đối với vật chứng đó mà Hội đồng xét xử quyết định về việc xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa; quyết định trả lại, tịch thu sung quỹ Nhà nước hay tịch thu tiêu hủy. Trong từng trường hợp khi quyết định về xử lý vật chứng có thể phải căn cứ vào cả Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc có trường hợp có thể chỉ căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong trường hợp tịch thu, tiêu hủy vật chứng thuộc điểm nào của điều luật thì phải ghi cụ thể điểm, khoản, điều của điều luật đó.

Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Hội đồng xét xử có thể bổ sung quyết định về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (nếu có) và kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm (nếu có). Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật (Điều 265 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) để thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Việc xem xét, trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật bị kiến nghị được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử phải xác định thời hạn kháng cáo của bán án theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; người có quyền kháng cáo quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp bị cáo bị phạt tử hình thì phải tuyên rõ trong bản án về quyền kháng cáo và nếu không kháng cáo thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án có quyền làm đơn xin Chủ tịch nước ân giảm hình phạt tử hình cho mình. Trường hợp Hội đồng xét xử phải trả tự do cho các bị cáo thuộc trường hợp quy định tại Điều 328; bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án thuộc trường hợp quy định tại Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về nơi nhận bản án: Chủ thể được nhận các bản án, quyết định của Tòa án gồm cả bị hại, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án dân sự, trại tạm giam, trại giam nơi đang giam giữ bị cáo (khoản 1 Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) và cơ quan quản lý lý lịch tư pháp (theo Điều 4 Luật Lý lịch tư pháp và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10-5-2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp).

Như vậy có thể thấy nội dung của bản án hình sự sơ thẩm đã bao trọn cả một quá trình tố tụng, từ khi khởi tố vụ án, điều tra vụ án, truy tố và đến khi Tòa án tuyên án. Bản án hình sự sơ thẩm ghi đầu đủ các thông tin của hồ sơ vụ án, lý lịch bị cáo, quá trình tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và cả những người tham gia tố tụng, các văn bản tố tụng của những người có thẩm quyền đều được đưa ra xét xử công khai tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Bản án hình sự là phán quyết của Hội đồng xét xử được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án, là kết quả cuối cùng của cả một quá trình tố tụng.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com