Khái niệm hợp đồng vô hiệu? Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vô hiệu? Phân loại hợp đồng vô hiệu? Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu?
1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu:
Về bản chất, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng khi giao kết và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực. Cũng có thể đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan. Diễn đạt theo cách khác, hợp đồng vô hiệu khi không đáp ứng đủ các điều kiện về giao dịch dân sự quy định tại Điều 122 của BLDS năm 2015.
Vô hiệu được hiểu là không thể phát sinh ra một hiệu lực pháp lý nào. Có quan điểm cho rằng, “trong sự kết lập mà các điều kiện hình thức cũng như về nội dung không được tôn trọng, khế ước đó phải được coi như không được kết lập và vì vậy không thể phát sinh một hiệu lực nào cả”.
Pháp luật không quy định khái niệm về hợp đồng vô hiệu mà chỉ xác định các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của BLDS năm 2015. Do đó, cũng có thể được áp dụng đối với trường hợp của hợp đồng vô hiệu. Vì thế, hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu khi không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định và các điều kiện đó là: Chủ thể phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, chủ thể tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện; mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật và cũng không được trái đạo đức xã hội; trong trường hợp luật có quy định hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì phải tuân thủ cả vấn đề về hình thức đó. Nói cách khác, khi hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện trên thì sẽ được coi là vô hiệu.
Tuy nhiên, Điều 408 của BLDS năm 2015 quy định: “1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thi hợp đồng này bị vô hiệu ...” là quy định chỉ rõ đối tượng của hợp đồng cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Những quy định này chỉ được đề cập đến trong từng chế định cụ thể của giao dịch dân sự, chứ không được quy định bao quát tại Điều 117 của BLDS năm 2015. Điều luật quy định chung về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Do đó, có lẽ nên bổ sung thêm điều kiện về đối tượng vào các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 117 của BLDS năm 2015. Như vậy, quy định tại Điều 122 của BLDS năm 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu sẽ bao quát, toàn diện, đầy đủ, rõ ràng và cũng thống nhất hơn.
Để hiểu rõ hơn về hợp đồng vô hiệu, có lẽ, cần phân biệt sự khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu với hợp đồng mất hiệu lực hay hợp đồng bị hủy bỏ. Sở dĩ như vậy là vì hậu quả pháp lý của các trường hợp này là rất khác nhau. Do vậy, cần có sự phân biệt để xác định được chính xác hợp đồng rơi vào trường hợp nào, từ đó, có cách xử lý cho thích hợp và đúng đắn, bảo vệ lợi ích chung cũng như quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng.
Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng được giao kết một cách hữu hiệu nhưng trong lúc đang được thực hiện thì lại mất một yếu tố cơ bản và do đó, không thể được thực hiện đến cùng hoặc thậm chí hoàn toàn không thể thực hiện được. Ví dụ, X ủy quyền cho Y đại diện cho mình tham gia tố tụng tại Tòa án, hợp đồng ủy quyền của hai người được giao kết một cách hợp lệ nhưng sau khi hợp đồng được giao kết thì Y lại chết bất ngờ và trong khi công việc được ủy quyền chưa được thực hiện, trường hợp này theo quy định tại điểm a, khoản 3, Điều 140 của BLDS năm 2015, hợp đồng ủy quyền đương nhiên chấm dứt.
Tuy hợp đồng vô hiệu và hợp đồng bị hủy bỏ đều đi đến một kết quả chung là chấm dứt hợp đồng nhưng hợp đồng vô hiệu là do vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại Điều 117 của BLDS năm 2015 như về năng lực của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng hoặc về ý chí của chủ thể trong giao kết hợp đồng hay về hình thức của hợp đồng... và hợp đồng đó không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết còn hợp đồng bị hủy bỏ là do một trong các bên trong hợp đồng vi phạm các điều khoản có trong hợp đồng hoặc một bên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng. Hay nói cách khác, nghĩa là hợp đồng có giá trị ở thời điểm giao kết nhưng mất hiệu lực do có một sự kiện xảy ra sau đó và các bên buộc phải trở lại tình trạng ban đầu.
Tóm lại, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không được pháp luật thừa nhận giá trị pháp lý. Trong khi đó các trường hợp còn lại là những hợp đồng đã được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhưng vì một lý do mà sau đó hợp đồng không thể tiếp tục được thực hiện.
Nói cách khác, “hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật” .
Ngoài ra, từ khái niệm của hợp đồng vô hiệu có thể rút ra bản chất pháp lý của hợp đồng vô hiệu chính là: Hợp đồng chứa đựng những khiếm khuyết hay những vi phạm pháp luật ngay từ khi hợp đồng được xác lập dẫn đến việc bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Nói cách khác, hợp đồng vô hiệu chính là hợp đồng mặc dù đã được các bên giao kết và thỏa thuận nhưng không có hiệu lực pháp luật.
2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vô hiệu:
Về bản chất, “hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại đều là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Giữa chúng có các điểm chung”.
Khi giao kết hợp đồng các bên tham gia hợp đồng có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện theo quy định của pháp luật. Nếu không tuân theo hợp đồng thì đương nhiên là sự vi phạm nghĩa vụ giữa các bên và vi phạm pháp luật. Còn đối với hợp đồng có hiệu thì thường có những đặc điểm pháp lý như sau:
Một là, hợp đồng vô hiệu phải là những hợp đồng có sự vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại Điều 117 của BLDS năm 2015. Về cơ bản, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại phần về giao dịch dân sự vô hiệu. Hệ thống các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định cụ thể tại Điều 117 và Điều 407 của BLDS năm 2015. Đó là các điều kiện pháp lý như:
– Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng;
– Ý chí của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng.
– Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
– Hình thức của hợp đồng phải phù hợp nếu pháp luật có quy định.
Như vậy, về nguyên tắc, nếu hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện này thì nếu có yêu cầu của một bên, Tòa án sẽ xem xét hợp đồng và có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Hai là, thời điểm xác định sự vô hiệu của hợp đồng là thời điểm hợp đồng đã được ký kết. Do đó, thời điểm xác định sự vô hiệu được tính kể từ thời điểm ký kết hợp đồng. Nếu xác định tại những thời điểm sau khi hợp đồng được xác lập tức là pháp luật đã thừa nhận hiệu lực của hợp đồng trước đó, thừa nhận những vi phạm pháp luật dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu. Như vậy, sẽ không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, không bảo vệ được các lợi ích bị xâm phạm bởi một hợp đồng vô hiệu.
Ba là, hợp đồng vô hiệu không được pháp luật thừa nhận. Như đã biết, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên và về nguyên tắc sẽ được nhà nước và pháp luật tôn trọng và bảo đảm cho việc thực hiện. Tuy nhiên, không phải mọi sự thỏa thuận đều được công nhận và bảo vệ. Pháp luật chỉ thừa nhận và bảo vệ những thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật. Mặc dù hợp đồng đã được giao kết và có thể đã được đưa ra thực hiện nhưng sự tồn tại của hợp đồng lúc này chỉ là trên thực tế. Một hợp đồng vô hiệu khi nó không tuân thủ các quy định của pháp luật, vượt ra ngoài giới hạn luật định, xâm phạm đến các quan hệ xã hội, các lợi ích được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Pháp luật không công nhận những hợp đồng này ngay cả khi các bên đã thừa nhận nó.
Bốn là, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng là hình thức pháp lý quan trọng thể hiện ý chí của các bên giao kết hay chính là nơi ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Do đó, hợp đồng là căn cứ pháp lý quan trọng làm cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Hợp đồng bị vô hiệu thì không phát sinh hiệu lực cho nên những thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm giữa các bên theo đó cũng không có giá trị về mặt pháp lý.
3. Phân loại hợp đồng vô hiệu:
Hợp đồng dân sự là bản giao kèo để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên Việc phân loại hợp đồng giúp cho việc tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng, chặt chẽ và chính xác hơn. Theo đó, có khá nhiều cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng vô hiệu. Cụ thể, các cách phân loại sau đây thường được sử dụng:
* Căn cứ vào thủ tục tố tụng có hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối
– Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối:
Đây là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu do việc xác lập hợp đồng trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công cộng. Một số trường trường hợp bị coi là vô hiệu tuyệt đối:
+ Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật.
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội.
Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa án cho các bên thời hạn để điều chỉnh, sửa chữa đúng quy định về hình thức nhưng khi hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện hoặc trường hợp pháp luật có quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu.
| Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối thì đương nhiên hoàn toàn không có hiệu lực pháp luật.
– Hợp đồng vô hiệu tương đối:
Đây là những hợp đồng đã được các bên xác lập nhưng có thể bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu một phần theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.
Sự vô hiệu tương đối thể hiện ở chỗ: Một (hoặc một số) nội dung của hợp đồng giao kết không đúng quy định của pháp luật hoặc xảy ra ngoài sự tính toán của các bên mà dẫn đến việc thực hiện hợp đồng không thể thực hiện được hoặc nếu thực hiện lại dẫn đến các hậu khá bất lợi... Các trường hợp dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu tương đối:
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không có năng lực hành vi tương ứng với đòi hỏi của pháp luật đối với loại giao dịch đó.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa. + Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối. + Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do một người xác lập trong tình trạng người đó không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.
* Căn cứ vào nội dung hợp đồng thì chia thành hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần
– Hợp đồng vô hiệu toàn bộ:
Đây là hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng.
Khi có những căn cứ cho là toàn bộ điều khoản của hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu có thể xuất phát từ sự vi phạm nội dung hợp đồng nhưng ngoài ra, cũng có thể là những căn cứ khác như: Mục đích, năng lực giao kết hợp đồng, hợp đồng giả tạo...
Bên cạnh đó, có những hợp đồng vô hiệu toàn bộ nhưng đối với một số điều khoản được các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng có vai trò độc lập với hợp đồng thì khi hợp đồng vô hiệu toàn bộ các điều khoản đó cũng có thể được công nhận có hiệu lực nếu đủ các điều kiện luật định mà không lệ thuộc vào hiệu lực của toàn bộ hợp đồng.
– Hợp đồng vô hiệu từng phần (vô hiệu một phần):
Đây là những hợp đồng được xác lập mà có một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng đó.
Đối với một hợp đồng vô hiệu từng phần, ngoài phần vô hiệu không được áp dụng, các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành. Chính vì vậy, các bên vẫn phải tiếp tục thi hành trong phạm vi phần hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
* Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau:
– Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là các điều kiện cần và đủ của năng lực chủ thể. Nói cách khác, chủ thể của các quan hệ pháp luật bắt buộc phải có đủ cả hai điều kiện là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự chính là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền hạn, nghĩa vụ và phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ. Còn năng lực hành vi dân sự tức là chủ thể bằng chính khả năng của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, chủ thể trực tiếp tham gia các hệ cầm cố, tặng cho, thế chấp, mua bán..
– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định bắt buộc không được thực hiện mà nếu thực hiện dẫn đến hậu quả pháp lý là trái quy định của pháp luật. Còn đạo đức xã hội là cách thức ứng hay quy cách xử giữa người với người nhưng được cả xã hội tôn trọng và thừa nhận. Nếu như là trái những quy cách ứng xử này sẽ bị lên án. Mặt khác, pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức xã hội. Vậy nên, việc vi phạm đạo đức xã hội thường cũng dẫn đến việc vi phạm pháp luật.
– Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể: Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và được ghi nhận trong các văn bản. Nên nếu như việc các bên mặc dù có hành vi giao kết hợp đồng nhưng trái tinh thần, mong muốn hay sự tự nguyện của các bên thì đương nhiên dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu. Bởi như đã nói, sự tự nguyện của các bên là cơ sở của việc giao kết hợp đồng.
– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức (nếu pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc). Để thống nhất và thuận tiện cho việc xem xét, giải quyết, pháp luật thường đưa ra một số điều kiện mang tính khuôn mẫu trong đó có vấn đề tuân thủ theo hình thức của hợp đồng. Như vậy, trong hầu hết các trường hợp, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo quy định về hình thức
* Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau:
– Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là các điều kiện cần và đủ của năng lực chủ thể. Nói cách khác, chủ thể của các quan hệ pháp luật bắt buộc phải có đủ cả hai điều kiện là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự chính là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền hạn, nghĩa vụ và phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ. Còn năng lực hành vi dân sự tức là chủ thể bằng chính khả năng của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, chủ thể trực tiếp tham gia các hệ cầm cố, tặng cho, thế chấp, mua bán...
– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định bắt buộc không được thực hiện mà nếu thực hiện dẫn đến hậu quả pháp lý là trái quy định của pháp luật. Còn đạo đức xã hội là cách thức ứng hay quy cách xử giữa người với người nhưng được cả xã hội tôn trọng và thừa nhận. Nếu như là trái những quy cách ứng xử này sẽ bị lên án. Mặt khác, pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức xã hội. Vậy nên, việc vi phạm đạo đức xã hội thường cũng dẫn đến việc vi phạm pháp luật.
– Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể: Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và được ghi nhận trong các văn bản. Nên nếu như việc các bên mặc dù có hành vi giao kết hợp đồng nhưng trái tinh thần, mong muốn hay sự tự nguyện của các bên thì đương nhiên dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu. Bởi như đã nói, sự tự nguyện của các bên là cơ sở của việc giao kết hợp đồng.
– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức (nếu pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc). Để thống nhất và thuận tiện cho việc xem xét, giải quyết, pháp luật thường đưa ra một số điều kiện mang tính khuôn mẫu trong đó có vấn đề tuân thủ theo hình thức của hợp đồng. Như vậy, trong hầu hết các trường hợp, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo quy định về hình thức của hợp đồng. Nếu như hình thức của hợp đồng không đúng quy định có thể dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu.
* Căn cứ vào mức độ vượt quá phạm vi đại diện của người đại diện
Về bản chất, đại diện được hiểu đó là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có thể xác lập thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Hình thức đại diện phổ biến thường được sử dụng như đại diện theo pháp luật; đại diện theo ủy quyền. Trong thương mại còn có hình thức đại diện cho thương nhân. Đây là một dạng riêng của quan hệ đại diện theo ủy quyền được
quy định trong Bộ luật Dân sự, bởi vậy, hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng đặc biệt của hợp đồng ủy quyền”.
Một trong các điều kiện quan trọng để công nhận hợp đồng có hiệu lực là tư cách đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc ủy quyền) của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức hoặc cá nhân. Trong nhiều trường hợp, khi việc tham gia xác lập hợp đồng thay cho người thứ ba không dựa trên các trường hợp đại diện luật định thì hợp đồng đó có thể bị là vô hiệu.
– Hợp đồng vô hiệu do người đại diện xác lập vượt quá phạm vi đại diện:
Thường thì đây là hợp đồng được xác lập bởi người đại diện hợp pháp, nhưng do người đại diện đã xác lập hợp đồng trên thực tế vượt quá phạm vi đại diện. Người trực tiếp tham gia hợp đồng tuy có tư cách đại diện hợp pháp nhưng nội dung hợp đồng do họ xác lập có một phần giá trị, mức độ, phạm vi vượt quá giới hạn được ghi trong hợp đồng ủy quyền hoặc được quy định trong loại đại diện tương ứng.
Hợp đồng được xác lập vượt quá phạm vi đại diện thì phần vượt quá phạm vi đại diện đó bị vô hiệu, trừ trường hợp người được đại diện biết mà không phản đối.
– Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có quyền đại diện:
Hợp đồng vô hiệu do người trực tiếp giao kết không có tư cách đại diện hoặc tuy có tư cách đại diện nhưng đã giao kết, thực hiện Hợp đồng không thuộc công việc mà họ được phép đại diện.
Cũng bị xem là không có tư cách đại diện nếu người đại diện đưa ra những tuyên bố trái với ý chí của người được đại diện hay làm những việc không thuộc đối tượng của quan hệ đại diện.
4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu:
Hậu quả pháp lý được hiểu là những hậu quả xảy ra và mang tính pháp lý khi một chủ thể không thực hiện theo nội dung đã cam kết và có thể đã gây ra thiệt hại cho chủ thể còn lại. Còn đối với hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu thì theo như tên gọi, đây chính là những hậu quả về mặt pháp lý mà các chủ thể sẽ phải gánh chịu khi hợp đồng bị Tòa án tuyên vô hiệu. Và thông thường, đây là các hậu quả bất lợi mà các chủ thể ký kết hợp đồng không hề mong muốn.
Trong đó, như đã biết, khi các chủ thể ký kết hợp đồng sẽ phát sinh các quyền, nghĩa vụ giữa cả hai bên hay còn được gọi là hợp đồng song vụ. Tuy nhiên, để hợp đồng có sự đảm bảo pháp lý thì pháp luật quy định khá nhiều điều kiện đối với chủ thể như: Chủ thể ký kết hợp đồng phải có năng lực chủ thể, nội dung và mục đích của hợp đồng không vi phạm pháp luật hay đạo đức xã hội... Vì vậy, nếu một bên tham gia ký kết hợp đồng không đáp ứng các điều kiện có thể dẫn đến hậu quả pháp luật không thừa nhận về giá trị pháp lý của hợp đồng đó hay đó còn được gọi là hợp đồng vô hiệu.
Nếu hợp đồng bị Tòa án tuyên vô hiệu thì các hậu quả pháp lý xảy ra đường nhiễm do các bên phải gánh chịu. Trong đó, thông thường, bên gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại nếu như bên gây ra thiệt hại cố tình lừa dối bên thiệt hại để ký kết hợp đồng. Mặt khác, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu có nghĩa là không có hợp đồng đó, vì vậy, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải hoàn trả nguyên trạng những đối tượng liên quan đến hợp đồng.
Về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015 về việc xác định thẩm quyền của Tòa án. Như vậy, về nguyên tắc, nếu tranh chấp hợp đồng liên quan đến bất động là thuộc về Tòa án nơi có bất động sản giải quyết. Còn lại thường thuộc về Tòa án nơi bị đơn là cá nhân cư trú, làm việc hay bị đơn là tổ chức thì là nơi có trụ sở. Quyết định tuyên bố hợp đồng vô hiệu thuộc về Tòa án.