Phân loại và ý nghĩa chế độ hồi tỵ ở Trung Quốc thời kỳ phong kiến

Phân loại các loại hồi tỵ tại Trung Quốc trong thời kỳ phong kiến? Ý nghĩa của chế độ hồi tỵ ở Trung Quốc thời phong kiến?

Chế độ hồi tỵ tại Trung Quốc trong thời kỳ phong kiến được phân loại thành: Hồi tỵ về thân thuộc; Hồi tỵ về địa vực (quê quán, trú quán, nơi làm ăn); Hồi tỵ về chức vụ, công việc cụ thể; Hồi tỵ trong khoa cử.

1. Hồi tỵ về thân thuộc:

Hồi tỵ về thân thuộc quan hệ phải tránh được xác lập từ sớm nhất, quy định việc tránh trên hai phương diện

Thứ nhất, những người thân thuộc phải tránh cùng làm việc trong một hệ thống quan chính quyền, đã được quy định trong Tâm hỗ phápthời Nhà Hán bộ luật về chế độ hồi tỵ trong bổ nhiệm quan lại đầu tiên được ban hành tại Trung Quốc. Thời Đường, phàm các chức quan liên quan với nhau hoặc giám sát nhau, thì người trong dòng tộc trong vòng 3 đời phải hồi tỵ.

dụ: con của Tể tướng không thể làm Gián quan, hay anh em ruột không thể nhận chức trong cùng một tỉnh. Thời Tống đưa ra quy định giữa các quan viên chấp hành tướng quyền không được quan hệ thân thích với nhau. Thời Tống Thần Tông năm thứ nhất, Tham tri chính sự Trình Khám quan hệ thông gia với Tể tướng (Tể tướng Tham tri chính sự quan hệ trưởng phó) nên đã bị điều chuyển sang nhậm chức Khu Mật phó sứ. Tống Thần Tông muốn lấy Ngô Dung làm Tham tri chính sự nhưng Ngô Sung với Tể tướng Vương An Thạch quan hệ thân thuộc nên chỉ thể bổ nhiệm Ngô Sung làm Khu Mật phó sứ.

Hồi tỵ về thân thuộc đưa ra yêu cầu những quan viên quan hệ ruột thịt theo trực hệ hoặc quan hệ về hôn nhân cần tránh đảm nhận chức vụ trong cùng một nha môn, hoặc các nha môn quan hệ cấp trên cấp dưới, hoặc giám sát lẫn nhau. Ngoài ra, Nhà Tống cũng cấm việc kế nhiệm nhau, dụ như con thay thế chức vụ của cha, cháu kế thừa chức vụ của chú cũng thuộc dạng bị cấm.

Thời Thanh, một quan viên dự khuyết thể được bổ nhiệm vào chỗ khuyết thiếu với điều kiện phải cách tịch quán 500 dặm phải đảm bảo quan mình nhậm chức không quan hệ thân tộc. Đại Thanh hội điểnghi Khang Hy năm thứ 3 (1664) quy định quan viên đang đương chức bên ngoài Thượng ty người đồng tộc thì phải hồi tỵ. Đại Thanh hội điểnquy định : Phàm chú bác, anh em cùng nhậm chức một nha môn, cho thân phận đều lấy quần nhỏ hồi tỵ quan lớn; nếu quan chức tương đương thì lấy người nhậm chức sau hồi tỵ người nhậm chức trước. Giữa ông cháu, cha con một người làm trưởng quan của một quan thì lấy thuộc quan hồi tỵ trưởng quan, những người khác cho phẩm cấp hay nhậm chức trước, sau đều lấy tử tôn hồi tỵ tôn trưởng

Thứ hai, những người thân thuộc phải tránh các chức vụ liên quan đến nhau tránh trong quá trình thực thi công vụ. Trong Tam hỗ phápthời Đông Hán quy định hai gia đình quan hệ hôn nhân không giám sát lẫn nhau. Thời Nhà Tống quy định, những người thân thuộc không được nhậm chức tại một quan trong một hệ thống hoặc có chức trách liên quan đến nhau, quan viên khi được bổ nhiệm, không những phải điền Xạ khuyết trạng, tuyên bố rằng mình hay không người thân thuộc cần phải hồi tỵ trong quan hệ cấp trên cấp dưới quan sở tại hoặc quan mối liên hệ mật thiết về nghiệp vụ hành chính với quan sở tại, đồng thời còn phải hai quan viên làm chứng phải viết chứng nhận Bảo quan trọng.

Nếu như người được bảo đảm che giấu sự thật, một khi bị phát hiện ra, sẽ phải chịu trừng phạt . Một dụ khác, giữa Tể tướng với quan chức thuộc Ngự sử đài, Gián viện phải hồi tỵ. Tể tướng trưởng quan hành chính cao nhất, trong khi đó Ngự sử đài, Gián quan thẩm quyền giám sát Tể tướng, cho nên giữa hai hệ thống này không thể quan hệ thân thuộc. Thời Đường, Tể tướng Đỗ con Đỗ Tòng Uất ban đầu giữ chức Tả bổ vong, sau đó lại giữ chức Tả hợp đi đều Gián quận, nếu như Tể tướng trong quá trình điều hành chính sự việc thất trách, thì con không thể đàn hặc (hạch tội/luận tội) cha. Do đó đã đổi Đỗ Tòng Uất sang đảm nhiệm chức Mật thư thừa.

Giữa quan lại Ngự sử đài Gián quan cũng cần thi hành hồi tỵ. Do quan lại Ngự sử đài Gián viện đều thuộc hệ thống quan giám sát, công việc của quan chức Ngự sử đài Gián viện có nhiều mối liên hệ lẫn nhau. Chính quyền Nhà Tống nhằm loại bỏ sự ràng buộc nhân của nhân viên pháp, ngăn chặn các hành vi dối trá, làm trái quy định xét xử, nên đã ban hành pháp lệnh quy định, người thẩm tra xử vụ án không được người thân của người phạm tội, những người khác nhiệm vụ xử vụ án cũng không được có liên hệ với người phạm tội giữ những người thẩm tra xử vụ án cũng không được quan hệ thân thuộc

Trải qua các triều đại, phạm vi của luật hồi tỵ về thân thuộc cũng sự thay đổi theo hướng ngày càng nghiêm ngặt hơn, đồng thời cũng ngày càng đưa ra các quy định cụ thể hơn đối với phạm vi hồi tỵ. Thời Đường, chủ yếu hạn chế họ hàng thân thích từ hàng Đại công trở lên không được giữ chức trong một quan phủ. Thời Tống, phạm vi hồi tỵ về thân thuộc được mở rộng đến hàng Ti matrở lên.

Tống Thần Tông năm thứ 3 (năm 1070 sau CN) đã phân chia các cấp bậc thân thuộc phải hồi tỵ thành: (1) người thân trong cùng dòng tộc thuộc hàng Ngũ phục trở lên cùng chung sống; (2) họ hàng xa trong cùng dòng tộc ngoài hàng Ngũ phục trở lên không cùng chung sống; (3) chồng của em họ, chị em gái, cháu gái (con của anh hoặc em), cháu gái (con gái của con trai); (4) cha của con rể, con dâu anh em ruột của người đó, chồng của chị, em ruột của mẹ, vợ, con của , cháu ngoại, chồng của cháu (con của em, chị gái); (5) người thân thuộc hàng Đại công của mẹ lúc mẹ còn sống. Tất cả các loại thân thuộc trên đều phải hồi tỵ. Đồng thời còn đưa ra 3 phương pháp chủ yếu để tiến hành hồi tỵ, đó : một hoán đổi chức vụ với người khác, hai điều động ra khỏi kinh thành, ba bãi miễn chức quan. Thông thường sẽ chức vị thấp hội tụ chức vị cao, chức vụ mới sau khi thay đổi về nguyên tắc sẽ tương ứng với chức v.

Phạm vi hồi tỵ về thân thuộc bản bao gồm những người quan hệ ruột thịt theo trực hệ, bàng hệ quan hệ về hôn nhân. Tuy nhiên, hệ thống tông tộc rất phức tạp, các tông tộc sẽ phát triển thành nhiều chi nhánh sau nhiều đời, do vậy nhìn một cách tổng thể rất khó thực hiện hồi tỵ về thân tộc. thế năm Khang Hy thứ 10 (1672) triều Thanh hạ lệnh: ngoài Ngũ phục, không cùng tịch quán, người cùng họ hàng nhưng trú tản mạn không cùng tỉnh thì thể miễn hồi tỵ

thể thấy, ngay từ rất sớm, các hoàng đế Trung Hoa đã nhận ra được mối nguy các quan hệ thân thuộc thể gây ra đối với sự cai trị của mình cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực thi công vụ của quan lại, trải qua các triều đại, quy định về hồi tỵ thân thuộc sự kế thừa của các triều đại trước sự điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh của từng thời kỳ

2. Hồi tỵ về địa vực (quê quán, trú quán, nơi làm ăn):

Hồi tỵ về địa vực chủ yếu quy định quan chức không được cai trị tại quê hương bản quán nơi trú quán. Trong tổ chức tồng tộc, nguyên quán không chỉ nơi người đó sinh ra lớn lên, cũng không chỉ nơi cha mẹ họ sinh ra lớn lên còn nơi tông tộc của người đó . Theo quan điểm của các nhà hội học, truyền thống Trung Hoa đặc điểm hội hương thôn, tính lưu động nhìn chung rất nhỏ.

Trong hội hương thôn ấy, đất đai quan hệ huyết thống bản đã ổn định, các tông tộc (dòng tộc) sinh sôi phát triển trên mảnh đất ổn định đó, chỉ những trường hợp đặc biệt mới phải xa cố hương. trong hội hương thôn, đại đa số các mối quan hệ của một nhân do quan hệ huyết thống tạo thành. Một người thể xa quê hương bản quán mấy chục năm nhưng một ngày trở về quê cha đất tổ sẽ ngay lập tức thấy được tầm quan trọng của các mối quan hệ ấy. vậy, một người làm quan tại nơi nhiều mối quan hệ bản quán phức tạp sẽ khó có thể giữ được sự công bằng, tư trong thi hành công vụ

Trú quán nơi sinh sống, cư trú của một người trong quá trình trưởng thành. Một người sinh sống tại một địa phương trong một thời gian dài tự nhiên sẽ hình thành các mối quan hệ phức tạp, vậy nên nếu người đó được bổ nhiệm làm quan lại tại nơi trú trong lâu dài, thì sẽ dễ nảy sinh các mối liên kết với các thế lực tại địa phương, tạo điều kiện để thực hiện các hành vi cấu kết trục lợi, tham nhũng, bè phái..

Do đó, các quy định hồi tỵ về địa vực ra đời nhằm giải quyết những nguy các mối quan hệ nảy sinh từ nguyên quán trú quán thể tác động tiêu cực đến việc bổ nhiệm quan lại thực thi công vụ

Các quy định hồi tỵ về quê quán đối với quan lại địa phương bắt đầu xuất hiện từ thời Nhà Hán, phạm vi cụ thể của hồi tỵ địa vực, mỗi triều đại những yêu cầu khác nhau, nhưng nhìn tổng thể, càng về các triều đại sau thì phạm vi càng rộng, việc thực thi cũng càng nghiêm ngặt

Thời Tây Hán, Hán Đế người đặt nền móng cho chế độ này khi quy định: Thứ sử không dùng người gốc châu, quận thủ không dùng người gốc quận, huyện lệnh không dùng người gốc huyện. Thời Đường, tất cả trưởng quan của châu, huyện đều không được nhậm chức tại quê hương các huyện phụ cận. Thời Tống, quan chức không chỉ phải hồi tỵ bản châu, bản phủ. Thời Minh Thanh, hồi tỵ về địa vực càng trở nên nghiêm ngặt, triều Minh quy định người miền Nam làm quan miền Bắc, người miền Bắc làm quan miền Nam, nếu muốn làm quan, thì chỉ còn cách vượt qua một nửa nước Trung Quốc. Pháp luật triều Thanh bột nghiêm ngặt hơn, chỉ đưa ra quy không được làm quan tại bản tỉnh. Ngoài hồi tỵ về quê quán, triều Thanh còn quy định hồi tỵ về nơi trú, làm ăn

Thông qua chế độ hồi tỵ về quê quán, sẽ giúp phòng ngừa làm suy yếu các thế lực cục bộ tại địa phương, tăng cường sự kiểm soát của chính quyền trung ương với địa phương, từ đó góp phần duy trì tập quyền trung ương sự thống nhất của đất nước. . Tuy nhiên, hồi tỵ về quê quán cũng tồn tại một số vấn đề, đó việc quan viên phải đi xa quê hương, làm quan tại một nơi xa lạ, dẫn đến việc khó thể sự hiểu biết từ trước đối với phong tục tại địa phương mình nhậm chức, cũng thể xảy ra hiện tượng không thông suốt về ngôn ngữ, gây ra khó khăn khi thực hiện quản . Tuy nhiên thông qua biện pháp này sẽ khiến cho quan lại chỉ một thân một mình, không người thân thích tại nơi mình quản , từ đó sẽ tránh được việc quá nhiều các quan hệ hội hình thành nên mạng lưới tình cảm nhân

3. Hồi tỵ về chức vụ, công việc cụ thể:

Trung Quốc thời cổ đại một số chức vụ đặc thù đưa ra yêu cầu đặc biệt đối với người nhậm chức, gọi đó hồi tỵ về chức vụ

Đối với Giám sát quan, chế độ hồi tỵ về thân thuộc đối với Giám sát quan tương đối nghiêm ngặt, người thân của quan lớn tại trung ương không được làm Giám sát quan Gián quan. Thời Bắc Ngụy quy định , con cháu trong các tộc không được làm Giám sát quan. Thời Đường, con cháu của Tể tướng (chức quan hành chính cao nhất) không được làm Giám sát quan, để tránh việc con không vạch tội cha. Thời Tống quy định, phàm những người được Tể tướng tiến cử làm quan cũng như họ hàng, con cháu, cấp dưới, thì đều không được đảm nhận chức Giám sát quan.

Thời Minh trên cơ sở các quy định từ thời Đường Tống đã quy định người trong dòng tộc của đại thần không được đảm nhận chức Khoa đạo quan (quan giám sát), đồng thời lệnh cho Giám sát quan lưu động phải tránh quê gốc, nơi từng đảm nhận chức quan, nơi trú..., để tránh người thân bạn các mối quan hệ ảnh hưởng đến việc giám sát. Trong quá trình giám sát, nếu như Giám sát quan bị nghi ngờ thân thù trong vụ việc thì cần phải hồi tỵ, nếu không hồi tỵ do đó dẫn đến vi phạm thì sẽ bị xử phạt nặng hơn. Thời Thanh quy định, con cháu của quan tam phẩm triều đình trở lên con cháu của đốc phủ các tỉnh không được thi Khoa đạo quan, người cùng quê người thân cũng thuộc diện phải hồi tỵ đối với chức Giám sát quan

Đối với các chức vụ trong lĩnh vực pháp. Nguyên sử. Hình pháp chí. Hình pháp. Chức chế thượngghi: “Các quan trong khi tố tụng, những việc liên quan đến mình, đến người thân hoặc những người quan hệ hôn nhâncần phải hồi tỵ, nếu không hồi tỵ đều bị tội. Từ triều Nguyên đến triều Thanh đều duy trì quy định này trong hoạt động tố tụng. Trong quá trình tố tụng nếu quan lại thẩm quyền thụ , truy bắt, xét xử, thi hành án liên quan đến các đương sự trong vụ án (quan hệ thân thuộc, hôn nhân, thầy trò, đồng liêu...) đều phải tiến hành hồi tỵ.

Đối với một số chức vụ phụ trách các công việc liên quan đến mạch máu kinh tếcủa đất nước như tài chính, thu thuế..., thời Minh Thanh đưa ra các quy định về hồi tỵ với các chức quan tương ứng. Nhà Minh quy định, quan lại Bộ Hộ phụ trách thu ngân sách nhà nước không được do người Giang , Chiết Giang, Giang Tây đảm nhận, bởi nguồn thuế từ các khu vực trên nguồn ngân sách chủ yếu của đất nước, nếu để người quê quán tại đó đảm nhận thì thể sẽ dẫn đến việc cấu kết với các thế lực bản địa, tham ô quốc khố.

Nhà Thanh quy định, người từng làm nghề buôn muối hoặc người thân như ông cháu, cha con, chú bác, anh em làm nghề buôn muối, thì đều không được đảm nhận chức vụ quản nghề muối của Bộ Hộ, để tránh việc lợi dụng chức quyền mưu lợi riêng. Tuy nhiên, cũng một số ngoại lệ đối với việc áp dụng hồi tỵ. Đối với những quan lại ở Thái y viện hoặc Chiêm Sự phủ, do tính chất công việc của những chức quan ngày đơn thuần về chuyên môn, bên cạnh còn đòi hỏi tính gia truyền, nên đều được các triều đại quy định không cần phải hồi tỵ 

Tóm lại, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã những nhận thức tương đối sâu sắc đối với một số công việc dễ bị ảnh hưởng bởi quan hệ cá nhân của những người thực thi công vụ, thể hiện qua việc ban hành những quy định hồi tỵ về chức vụ tương đối cụ thể

4. Hồi tỵ trong khoa cử:

Nhìn chung, trước thời Tùy Đường, chế độ hồi tỵ trong tuyển chọn quan lại chưa được các vương triều thực sự chú trọng, về bản vẫn theo thời Tần Hán thế tập, đó việc trực tiếp thông qua quan hệ huyết thống của gia tộc được đảm nhiệm các chức vụ trong triều đình. Cấp bậc của quan lại cũng được xác định dựa vào địa vị của gia tộc quan hệ thân thuộc về huyết thống, gọi “môn giáng. Việc tuyển chọn quan lại cũng có thể thông qua phương thức tiến cử bắt đầu từ thời Tây Hán (202 TCN). Những tử tài đức được quan viên tiến cử, trải qua khảo sát xác định vị trí trong quan trường. Dưới các thời Ngụy (220265), Tấn (266420), Nam Bắc triều (420589) thực hiện chế độ cửu phẩm trung chính, trực tiếp lấy thế gia làm căn cứ chủ yếu để tuyển chọn quan lại (Thượng phẩm hàn môn, hạ phẩm quy tộc).

Về sau này, từ thời Nhà Tùy, chế độ khoa cử mới được sáng lập trở thành một phương thức tuyển chọn quan lại được các vương triều sử dụng ngày càng phổ biến. Chế độ hồi tỵ trong khoa cử cũng theo đó hình thành và ngày càng thành thục cùng với quá trình phát triển của thiết chế trung ương tập quyền. Chế độ này bắt đầu từ thời Tùy Dạng Đế (604618), đến thời Đường chính thức quy định thành văn bản đến thời Minh, Thanh phát triển trở nên tương đối chặt chẽ. Thời Nhà Tống quy định những thí sinh quan hệ quê quán, thân thích, thầy trò, bạn với quan chủ khảo phải thực hiện hồi tỵ, ngoài hồi tỵ, triều đình còn phái Khảo quan khác, thay đổi địa điểm thi.

Thời Đường Huyền Tông (712756), việc khoa cử vốn giao cho Khảo công ty thuộc Bộ Lại chủ trì, nhưng sau đó để đảm bảo khách quan hơn đã chuyển cho Thị lang của Bộ Lễ chủ trì. Đồng thời cũng quy định nếu như người thân của Lễ bộ Thị lang tham gia khoa cử thì việc chủ trì khoa cử lại chuyển về cho Khảo công ty thuộc Bộ Lại. chế này thường được gọi biệt đầu thíhoặc biệt đầu cử, chế độ hồi tỵ về thân thuộc trong khoa cử đầu tiên. Đến thời Nhà Tống, bất kể cuộc thi cấp tỉnh hay hương, phủ, châu đều áp dụng chế biệt đầu thú.

Thời Tống thi hành chế độ Tòa viện khiến việc thi cử ngày càng chặt chẽ. Chế độ này quy định, trước khi kỳ thi diễn ra một thời gian sẽ đưa quan chủ khảo vừa được nhậm chức đến Công viên, cho đến khi các tử nộp quyển trường thi xong mới thể ra khỏi Cống viện. Đến thời Minh (13681644), chế độ này được tăng cường hơn nữa khi quy định: “Những người trong tổn thất không được làm quan, không được tham gia khoa cử, chỉ dựa vào tước vị hưởng lộc. Thời Thanh (16361912), hồi tỵ trong khoa cử thực hiện cùng nghiêm ngặt, không chỉ phải hồi tỵ với khảo quan còn hồi tỵ với những quan lại làm việc trường thi.

Về việc hồi tỵ với Khảo quan bản được quy định giống với hồi tỵ về quê quán, trú quán thân thuộc. Triều Thanh quy định hồi tỵ với quan viên làm việc trường thị là nếu những quan viên này người thân tham gia thi cử thì không được tham gia làm việc phải tự khai báo, không được giấu giếm

Áp dụng chế độ hồi tỵ trong khoa cử đã góp phần giúp triều đình phong kiến lựa chọn được những quan chức tài năng, bảo đảm sự công bằng trong khoa cử giảm bớt sự uy hiếp của các gia tộc nắm giữ quyền lực chính trị với hoàng quyền

5. Ý nghĩa của chế độ hồi tỵ Trung Quốc thời phong kiến:

Chế độ hồi tỵ trong quan chế Trung Quốc thời phong kiến chủ yếu để nhằm phục vụ cho chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ phong kiến chuyên chế này tuy trải qua nhiều thăng trầm, nhưng vẫn thể duy trì sự thống trị hơn 2000 năm tại Trung Quốc, nguyên nhân của điều này một phần đóng góp của chế độ hồi tỵ trong quan chế khi khiến cho các triều đại tự ràng buộc chỉnh đốn chính mình

Thứ nhất, chế độ hồi tỵ giúp cho quan lại trong sạch, giảm thiểu các hành vi tham nhũng ổn định chính quyền. Các vương triều phong kiến Trung Quốc về bản nói, được thành lập trên sở sự cướp đoạt kinh tế áp bức chính trị đối với đông đảo người dân lao động, tuy rằng không thể xóa bỏ triệt để hiện tượng tham nhũng, xoay chuyển cục diện đối lập giữa quan lại dân chúng, nhưng nếu xuất phát từ lợi ích lâu dài ổn định chính quyền, bảo đảm trật tự hội của các vương triều phong kiến, thì việc thực hiện chế độ hồi tỵ trong quan chế một cách bắt buộc, sẽ giúp kìm hãm sự xuống dốc của quan lại, làm chậm quá trình hủ bại, ngăn việc quan lại rơi vào trong các mối quan hệ hội hoặc nhóm lợi ích theo địa vực không phù hợp với yêu cầu chức trách nhiệm vụ. Do vậy, chế độ hồi tỵ mang ý nghĩa tích cực một mức độ nhất định

Thứ hai, phát huy vai trò tích cực đối với việc thực hiện chức năng hành chính của nhà nước phong kiến, giữ gìn kỷ cương của vương triều phong kiến, bảo đảm cho bộ máy thống trị được vận hành bình thường. Các vương triều phong kiến tại Trung Quốc từ sau thời Tần Hán về tổng thể nói, đã phá vỡ 

kết cấu hành chính, chính trị dựa trên nền tảng các mối quan hệ huyết thống từ thời kỳ Tân Tần, thiết lập chế tuyển chọn nhân sự tương đối tiên tiến. Trong một hội Trung Quốc cổ đại coi trọng tình cảm tông tộc, huyết thống, bất kỳ một mối quan hệ thân thuộc nào tồn tại trong hoạt động công vụ cũng sẽ quấy nhiễu cản trở sự vận hành bình thường của bộ máy thống trị. Việc thực hiện chế độ hồi tỵ, chắc chắn giúp khắc phục tình trạng trên, giảm thiểu các một số tổn hại đối với bộ máy thống trị phong kiến. 

Thứ ba, ngăn chặn quan lại kéo kết phái mưu lợi riêng, kiềm chế các thế lực địa phương. Sau thời Tần Hán, Trung Quốc thiết lập chính thể trung ương tập quyền theo hình chuyên chế, với hoàng quyền vị trí cao nhất, đến thần thánh cũng không thể xâm phạm. Tuy nhiên, do xã hội Trung Quốc một hội chính trị quan liêu với nền tảng kinh tế địa phương, cho nên tập quyền và phân quyền, quân quyền và thần quyền, mâu thuẫn đấu tranh giữa trung ương và địa phương luôn luôn tồn tại, mức độ phát triển mỗi lúc mỗi khác, lúc thậm chí cùng gay gắt.

vậy, để tăng cường củng cố tập quyền trung ương, bắt buộc phải áp dụng các biện pháp để kiềm chế các thế lực cát cứ địa phương, ngăn chặn kết bè kéo phái mưu lợi riêng, tranh quyền đoạt vị. Việc thực hiện chế độ hồi tỵ trong quan chế, lấy pháp luật để cưỡng chế quan viên phải tránh tịch quán, thân thuộc, từ đó ngăn chặn hiệu quả quan lại cấu kết mưu lợi, bành trướng thế lực tại địa phương

Nhìn chung, chế độ hồi tỵ tại Trung Quốc lịch sử hình thành phát triển lâu dài, trở thành một trong những nhân tố tích cực góp phần ổn định chính trị trong nước. Chế độ hồi tỵ xuất phát từ nhu cầu thực tế trong việc quản hành chính nhân sự, cũng được từng bước hoàn thiện dựa trên nhu cầu về quản hành chính nhân sự. Trong khoảng 2000 năm từ giữa thời Hán Đế cho đến cuối thời Nhà Thanh, chế độ hồi tỵ vai trò tích cực trong việc chỉnh đốn quản quan lại, phòng ngừa và hạn chế quan lại lợi dụng quan hệ thân thuộc để kéo kết phái, cấu kết lẫn nhau, lợi ích riêng làm việc phi pháp, gây rối loạn kỷ cương; đồng thời vai trò quan trọng trong việc giúp cho quan lại các cấp thoát khỏi sự ràng buộc của quan hệ gia tộc quan hệ dây lưng buộc váy, từ đó thực hiện công việc, hoàn thành chức trách quản hành chính không trở ngại.

Ngoài ra, chế độ hồi tỵ còn mang tính khoa học nhất định, là một trong những tinh hoa về quy chế quy định của chế độ quan lại Trung Quốc cổ đại, sớm đã được nhiều nước trên thế giới học hỏi. Đối với Trung Quốc, nước này đã nghiên cứu tổng kết sự hình thành phát triển của chế độ hồi tỵ thời phong kiến, kế thừa tiếp thu phần nào những kinh nghiệm cách làm trong đó, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng chính quyền mang đặc sắc Trung Quốc.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com