Phân tích các yếu tố chi phối đến việc ly thân tại Việt Nam

Phân tích các yếu tố chi phối đến việc ly thân tại Việt Nam: Kinh tế, xã hội, tôn giáo, chính trị, khu vực sinh sống, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng việc làm của vợ chồng…

Hôn nhân quan hệ giữa vợ chồng, trong đó quan hệ tình giao giữa hai người ý nghĩa quan trọng, nhưng không đâu, bất kỳ quốc gia nào, khác nhau về chế độ chính trị hội, lại đồng nhất hôn nhân với quan hệ tính giao. Hôn nhân chỉ tồn tại trong hội loài người, thể hiện văn hóa, ý thức của con người trong quan hệ tình giao, vừa thể hiện tính tự nhiên, vừa mang những đặc điểm hội kinh tế sâu sắc của mỗi giai đoạn lịch sử. Tùy thuộc vào điều kiện hội những yếu tố văn hóa tộc người hôn nhân diễn ra theo nhiều hình thái khác nhau, vừa phản ánh quy luật chung nhất sự phát triển của hội loài người qua các giai đoạn lịch sử, vừa mang những đặc thù văn hóa tộc người

rất nhiều yếu tố chi phối đến tình trạng ly thân của vợ chồng. Tuy nhiên, tại Việt Nam, ly thân nói riêng tình trạng hôn nhân nói chung chủ yếu bị chi phối bởi các yếu tố như: Kinh tế, hội, tôn giáo, chính trị, khu vực sinh sống, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng việc làm của vợ chồng... Các yếu tố này thể được chia thành 02 nhóm yếu tố khách quan yếu tố chủ quan

Số liệu thống từ cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống Bộ kế hoạch đầu đã chỉ ra một số yếu tố tác động đến tình trạng ly thân tại Việt Nam. Các số liệu này biến số phụ thuộc tình trạng ly hôn/ly thân các nhân (ly hôn hoặc ly thân=1, đang vợ/chồng=0). Riêng với hình cho phụ nữ thì bổ sung thêm chỉ báo về tình trạng đã từng sinh con. Kết quả ước lượng biến số phụ thuộc từ hình hồi quy tuy được gọi xác suất ly hôn/ly thân, nhưng thực chất xác suất tình trạng ly hôn/ly thân (chứ không phải xác suất trở thành người ly hôn/ly thân). Kết quả cho thấy, không như trong hình hồi quy về tình trạng kết hôn sớm, các biến số độc lập trong hình này chỉ giải thích được phần khá nhỏ sự biến thiên của biến số phụ thuộc. Nguyên nhân ly hôn/ly thân hiện tượng hội còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác không trong hình. Sau đây phân tích mối liên hệ của từng biến số độc lập đến xác suất ly hôn/ly thân trong dân số độ tuổi từ 1569 tuổi đã từng kết hôn không bị góa.

Dựa vào số liệu được khảo sát từ Báo cáo cấu trúc tuổi giới tính tình trạng hôn nhân của dân số Việt Nam năm 2009 của Tổng cục thống Bộ kế hoạch đầu trên, ta thể khái quát các yếu tố ảnh hưởng đến ly thân tại Việt Nam như sau

Thứ nhất, các yếu tố chủ quan chi phối đến việc ly thân của vợ chồng điều kiện kinh tế gia đình, độ tuổi, trình độ học vấn, tình trạng việc làm, tình trạng khuyết tật, tình trạng con cái của vợ chồng

Các số liệu thống cho thấy, gia đình điều kiện kinh tế tốt tỷ lệ ly thân thấp hơn gia đình kinh tế khó khăn. Điều này thể được giải bởi vợ chồng kinh tế từ mức trung bình khá của hội sẽ ít xảy ra mâu thuẫn hơn; ngược lại, hoàn cảnh kinh tế khó khăn thường tạo ra những nguy xảy ra mâu thuẫn, cãi giữa vợ chồng, làm cho tình cảm giữa vợ chồng bị ảnh hưởng xấu. Điều này cũng thể nhìn thấy số liệu tỷ lệ ly thân theo vùng kinh tế hội, đó trong cùng điều kiện xác định bởi các biến số độc lập khác trong hình, Trung du miền núi phía Bắc xác suất ly hôn/ly thân cao hơn các vùng Đồng bằng Sông Hồng, Duyên hải miền Trung Tây Nguyên, nhưng thấp hơn vùng Đông Nam Bộ. Điều đó cho thấy những vùng kinh tế khó khăn ly thân cao hơn vùng có kinh tế khá. Tuy nhiên, yếu tố vùng kinh tế không ảnh hưởng quá nhiều đến tình trạng ly thân, cần nói hơn tình trạng kinh tế của gia đình mới ảnh hưởng trực tiếp đến ly thân, bởi vùng Đông Nam Bộ có điều kiện kinh tế vùng tốt hơn khu vực miền Trung, Tây Nguyên nhưng lại tỷ lệ ly thân cao hơn

Về độ tuổi, đối với phụ nữ đã từng kết hôn, xác suất ly thân thấp nhất độ tuổi 1519, sau đó tăng dần đạt mức cao nhất độ tuổi 4049, rồi lại giảm dần nhóm 5059 6069 tuổi. Xác suất ly thân của nam cũng tăng dần đạt mức cao nhất nhóm 3039 tuổi, sau đó giảm dần khi tuổi tăng lên đến độ tuổi 6069 thì còn thấp hơn cả nhóm 1519 tuổi. Như vậy, mối tương quan giữa xác suất ly thân với tuổi của cả nam nữ đều dạng hình chuông với đỉnh độ tuổi 3039 cho nam 4049 cho nữ. Điều này cho thấy nhóm tuổi trung niên ly thân cao nhất, bởi độ tuổi này thường đời sống hôn nhân nhàm chán sau nhiều năm kết hôn, không còn mặn nồng, dễ xảy ra cãi con cái đã trưởng thành, vậy vợ chồng thường bất mãn nên dễ dẫn đến quyết định ly thân

Về trình độ học vấn của vợ chồng, với cả nam và nữ thì trình độ học vấn càng cao tương ứng với xác suất ly thân càng thấp sự khác biệt của xác suất ly thân theo trình độ học vấn nam giới hơn phụ nữ. Điều này cũng đồng nhất với kết quả điều tra về gia đình Việt Nam năm 2006. Thông thường, hội hiện đại hóa, công nghiệp hóa hơn, trình độ học vấn cao hơn tình trạng ly thân cũng thường phổ biến hơn so với trong hội truyền thống, chậm phát triển. Tuy nhiên theo kết quả hồi quy thì trình độ học vấn cao không dẫn đến tăng ly thân có lẽ ngược lại. Ngoài ra, một điểm cũng đáng chú ý là không thấy sự khác biệt về xác suất ly thân của phụ nữ giữa nhóm trình độ dưới tiểu học đã tốt nghiệp tiểu học. Điều đó cho thấy, nếu chỉ xét riêng yếu tố trình độ học vấn thì sẽ không thể kết luận được tác động của tới ly thân, phải xét trình độ học vấn gắn với điều kiện kinh tếhội, xu hướng duy cộng đồng mới thể kết luận được vấn đề này

Về tình trạng việc làm, mối liên hệ giữa xác suất ly thân với tình trạng việc làm lại theo chiều hướng trái ngược nhau giữa nam nữ. Nam giới đang việc làm có xác suất ly thân thấp hơn so với nam giới không làm việc, nhưng phụ nữ đang làm việc lại xác suất ly thân cao hơn phụ nữ không làm việc. do thể kiểu gia đình chồng làm việc Vợ nội trợ còn khá phổ biến nếu vợ chồng như vậy ly thân thì người phụ nữ buộc phải đi làm. Một cách giải thích khác đa số những trường hợp ly thân Việt Nam do phụ nữ chủ động (UNICEF, 2008) khi vị thế trong gia đình của họ không thấp hơn của nam giới.

vậy, khi phụ nữ việc làm hoặc nam giới không làm việc thì vị thế của phụ nữ tăng lên do đó, khả năng ly thân cũng tăng. Các nhà nghiên cứu cũng lập luận rằng, việc phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động gia tăng yếu tố quan trọng làm tăng tỷ suất ly thân. chế của mối liên hệ này phụ nữ việc làm sẽ thu nhập do đó, tăng khả năng tham gia vào công việc hội, công việc ngoài gia đình phần nào tăng sự giao tiếp với người khác giới nơi làm việc, phụ nữ sẽ tự tin hơn, độc lập hơn, ít phụ thuộc vào người chồng hơn không sợ bị ảnh hưởng tiêu cực của việc ly thân... sẽ dẫn đến khả năng ly thân cao hơn.

Cũng ý kiến cho rằng tỷ lệ ly thân tăng do vai trò truyền thống trở thành gánh nặng cho phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động Việt Nam. Tuy nhiên, điểm tương đồng gia đình có cả vợ chồng việc làm thì tỷ lệ ly thân thấp hơn gia đình cả vợ chồng không có việc làm. Số liệu này phù hợp với cách lý giải về số liệu của tình trạng kinh tế gia đình như đã giải thích trên. Hay nói cách khác, thể kết luận về cả hai yếu tố kinh tế gia đình tình trạng việc làm của vợ chồng : Gia đình vợ chồng đều việc làm điều kiện kinh tế khá thì tỷ lệ ly thân thấp hơn gia đình chỉ vợ hoặc chồng việc làm kinh tế gia đình khó khăn

Về tình trạng khuyết tật, kết quả nhất thể dự báo trước người bị khuyết tật về tâm trí thì xác suất ly thân cao hơn nhiều so với người không khuyết tật sự khác biệt này nam giới hơn phụ nữ. Phụ nữ bị khuyết tật vận động hay khuyết tật thị giác cũng xác suất ly thân cao hơn so với phụ nữ không khuyết tật. Trong khi đó, lẽ do bao gồm cả không ít trường hợp bị cận thị nặng (thường trình độ học vấn trung bình hoặc cao), nam giới khiếm thị xác suất ly thân không khác nam giới không bị khuyết tật này. Kết quả vẻ khó hiểu nam giới bị khiếm thính hay đi lại khó khăn lại xác suất ly thân thấp hơn so với nam giới không khuyết tật.

Chắc hẳn đây không phải dạng khuyết tật khó được phụ nữ chấp nhận như rối nhiễu tâm trí. Theo Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 (UNICEF, 2008) thì trong số các vụ ly hôn tới gần 28% do mâu thuẫn về lối sống 26% do ngoại tình, nhưng chỉ 2,2% do sức khỏe. vậy, ít khả năng sức khỏe vấn đề ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc gia đình của nam giới. Nếu như hai nguyên nhân chủ yếu của ly thân (mâu thuẫn lối sống ngoại tình) ít xảy ra nhóm nam giới thì việc gia đình họ thể bền vững hơn so với các gia đình khác điều hợp . Tuy nhiên, đây chỉ là giả thiết cần được nghiên cứu sâu hơn

Về tình trạng đã sinh con, khi đã gia đình thì phụ nữ con sẽ xác suất ly thân thấp hơn phụ nữ chưa con. ràng trong hội Việt Nam, những đứa con luôn mối ràng buộc rất quan trọng của hôn nhân. Nếu nhiều cặp vợ chồng đã phải ly thân, thậm chí ly hôn không con thì cũng không ít cặp rất mâu thuẫn nhưng không thể ly thân hay ly hôn nghĩ đến con cái. Rất nhiều vợ chồng, đặc biệt người vợ, phải chịu đựng cuộc hôn nhân không hạnh phúc suốt thời gian dài chỉ do muốn con lớn lên đủ bố mẹ, không loại trừ việc xảy ra bạo lực gia đình (chủ yếu chồng gây ra cho vợ).

Bởi lẽ, phụ nữ Việt Nam thường tưởng sống con, khi đã con ly thân thì con sẽ thiệt thòi, hoặc nếu ly hôn thì rất khó tạo lập cuộc hôn nhân mới với người khác. Điều này đúng với vợ chồng tất cả các độ tuổi, từ thanh niên, trung niên đến sau trung niên đúng với cả nam nữ, khi họ đã con thì kể cả cuộc hôn nhân không còn tình yêu họ vẫn sẽ cố gắng sống chung với nhau trách nhiệm. Nhất với hội truyền thống trước đây, tinh thần trách nhiệm nuôi dạy con cái, cho con gia đình hoàn chỉnh đầy đủ các thành viên luôn được đề cao

Thứ hai, các yếu tố khách quan chi phối đến việc ly thân của vợ chồng phải kể đến tình hình kinh tế chính trị hội, tình trạng nhập , tôn giáo, dân tộc, khu vực sinh sống, xu hướng duy của cộng đồng

Về tình hình kinh tếchính trị-xã hội, đây yếu tố cốt lõi trong sự phát triển ổn định của một quốc gia. Một quốc gia tình hình kinh tế – chính trị hội tốt đồng nghĩa với việc cuộc sống của dân tại quốc gia đó sẽ ổn định, không bị xáo trộn bởi những biến cố như bạo loạn, khủng bố, khủng hoảng kinh tế... Khi cuộc sống của người dân không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về bất ổn chính trị thì họ sẽ thời gian chăm lo cho gia đình, cuộc sống hôn nhân vợ chồng ngày càng được vun vén hơn. Chính vậy, thể thấy rằng tình hình kinh tế chính trị hội sẽ một trong những yếu tố tác động không nhỏ tới đời sống HNGĐ của vợ chồng 

Về tình trạng nhập cư, theo số liệu bảng trên cho thấy, người nhập xác suất ly thân thấp hơn người bản địa. do thể đa số người di từ nơi điều kiện sống thấp sang nơi điều kiện sống cao hơn họ vẫn còn chịu ảnh hưởng lối sống, văn hóa định hướng giá trị truyền thống nhiều hơn người bản địa. Sự khác biệt này nam giới lớn hơn nữ giới. Tại Việt Nam, người dân từ vùng nông thôn, miền núi thường di đến những vùng đồng bằng hoặc vùng hội kinh tế, việc làm tốt hơn (dụ như người dân các tỉnh miền núi thường di đến Nội hay người dân miền Tây đồng bằng Sông Cửu Long thường di đến thành phố Hồ Chí Minh). Tỷ lệ này nam giới cao hơn bởi với duy truyền thống của người Á Đông, trong đó Việt Nam, nam giới thường bị đặt nặng về vai trò trụ cột, đồng nghĩa với việc họ người chăm lo chính về kinh tế trong gia đình

Về dân tộc, người dân tộc thiểu số xác suất ly thân thấp hơn đáng kể so với người Kinh hệ số hồi quy cho biến số này không khác biệt đáng kể giữa hình cho nam cho nữ. Điều này cũng phù hợp với thuyết về tác động của điều kiện sống đến hôn nhân, bởi hầu hết các nhóm dân tộc thiểu số Việt Nam đều sống nơi mang tính hội truyền thống hơn điều kiện sống thấp hơn so với nơi người Kinh sống. Người dân tộc thiểu số thường bị ảnh hưởng nặng nề bởi tưởng gia trưởng, một số nơi còn tồn tại nhiều hủ tục.

Người dân tộc thiểu số cũng niềm tin vào thánh thần, họ cho rằng khi đã tiến hành nghi thức cưới hỏi, trao lễ vật, tạo lập lời thề trước bàn thờ tế lễ thánh thần ban thờ gia tiên thì họ sẽ ăn đời kiếpvới nhau. dụ như: Luật tục dân tộc Xê Đăng quy định nếu khi vợ chồng ly hôn thì cả hai người đều bị phạt nếu người chồng bỏ vợ dẫn đến vợ chồng ly hôn thì sau 06 năm người chồng đó mới được lấy vợ khác, hoặc khi vợ hoặc chồng người chết trước thì người còn lại sau 03 năm mới được kết hôn

Về tôn giáo, xác suất ly thân trong nhóm phụ nữ tôn giáo cao hơn so với nhóm phụ nữ không theo tôn giáo, bởi một số tôn giáo không cho phép ly hôn nên các tín đồ sẽ lựa chọn ly thân thay ly hôn khi đời sống vợ chồng mâu thuẫn. Kết quả hồi quy không cho thấy sự khác biệt này nam giới. Mặc vậy, chưa thể kết luận về sự liên quan giữa tôn giáo ly thân, nhất đối với phụ nữ, bởi theo đạo thể làm giảm khả năng ly hôn hay ly thân nhưng khi đã ly hôn hay ly thân thì lại làm tăng khả năng theo đạo trong khi số liệu từ Báo cáo tổng điều tra dân số trên chỉ kết quả tổng hợp của chúng được thể hiện trên hình hồi quy này. T

heo giáo của đạo Phật hay Công giáo, vợ chồng kết hôn với nhau đều do duyên phận không thể dễ dàng phá bỏ mối liên hệ đó. Đạo Phật coi vấn đề ly thân hay ly hôn phần thoánghơn Công giáo. Việc ly hôn hay ly thân không bị cấm đoán trong đạo Phật. Đạo Phật đề cao đời sống chung thủy một vợ một chồng sự kiêng cữ phạm giới dâm không nghĩa cấm việc ly hôn, vợ chồng đều quyền tự do thực hiện việc ly hôn hay ly thân nếu đời sống quan hệ vợ chồng của hai người đã đang không mang lại hạnh phúc chỉ làm cho hai người càng thêm bất hạnh. Ngược lại, Công giáo cấm ly hôn, vậy khi hôn nhân bế tắc, vợ chồng chỉ còn cách ly thân.

Theo thống của Ban Tôn giáo Chính phủ, 26.4% dân số được xếp vào các tín đồ tôn giáo, trong đó, 14.91% tín đồ đạo Phật, 7.35% tín đồ Công giáo La , 1.09% tín đồ đạo Tin lành, 1.16% tín đồ đạo Cao Đài, 1.47% tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Như vậy, thể thấy đạo Phật chiếm tỷ lệ cao nhất trong dân số Việt Nam; cùng với giáo không cấm ly hôn hay ly thân của đạo Phật đã làm cho số liệu thống mối liên hệ giữa tôn giáo vấn đề ly thân không phản ánh hoàn toàn thực trạng sự ảnh hưởng của tôn giáo lên đời sống hôn nhân hiện nay. Hay nói cách khác, tại Việt Nam chỉ một phần trăm dân số rất nhỏ (người theo đạo Công giáo) bị ảnh hưởng tưởng bởi tôn giáo (cấm ly hôn) khi quyết định vấn đề ly thân hay ly hôn

Về khu vực sinh sống, đây nơi mối quan hệ HNGĐ giữa vợ chồng hình thành phát triển. Do vậy, yếu tố này tác động trực tiếp tới quan hệ nội tại của vợ chồng. Tại khu vực sinh sống rất nhiều yếu tố tác động như: Đặc điểm văn hóa vùng miền, phong tục tập quán địa phương, lễ tiết tác phong... Những yếu tố này sẽ gây ảnh hưởng tới nhận thức, duy, thái độ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt vấn đề ly hôn hoặc ly thân.

Rất nhiều trường hợp đã chứng minh rằng chính những tập quán, phong tục địa phương, thậm chí gia phong của một họ cũng sẽ yếu tố tác động lớn tới cách suy nghĩ ra quyết định của vợ, chồng trong vấn đề ly thân. Đôi khi chính phong tục, tập quán địa phương hay lễ tiết, tác phong của một gia đình rào cản trong quyết định ly thân của vợ chồng. thể về mặt trí, vợ chồng đã mong muốn ly thân, tuy nhiên do ảnh hưởng từ những nhận thức về thuần phong, mỹ tục, về nét văn hóa vùng miền, nơi sinh sống vợ chồng rút lại quyết định ly thân tiếp tục chung sống hoặc ngược lại, họ cũng thể tiến tới tình trạng ly thân không thực hiện việc ly hôn mặc đã những mâu thuẫn không thể điều hòa

Về xu hướng duy của cộng đồng, đây có thể hiểu việc đại bộ phận dân trong cộng đồng cùng cách nhận thức giải quyết về một vấn đề giống nhau. Xu hướng này sẽ yếu tố tác động rất lớn tới tâm của người dân sinh sống trong cộng đồng đó trong việc giải quyết một vấn đề, cụ thể như trong ly thân. Điển hình như tại khu vực nông thôn, vợ chồng khi xảy ra mâu thuẫn thường xu hướng đóng cửa bảo nhauđể tránh dèm pha, dị nghị, ảnh hưởng tới thể diện, hình ảnh của gia đình. Đây điều dễ hiểu bởi tại nông thôn, người dân vẫn giữ được lối sống làng xóm, láng giềng, lễ giáo truyền thống họ rất sợ tiếng xấu. vậy, vợ chồng tại khu vực này thường chọn giải pháp ly thân thay ly hôn.

trường hợp ngược lại, tại cộng đồng dân khu vực thành thị thường xu hướng duy lựa chọn ly hôn nhiều hơn bởi sự tiếp nhận văn hóa phương tây cũng như lối sống thông thoáng hơn rất nhiều so với khu vực nông thôn. Khi cộng đồng hình thành một lối duy chung, điều này sẽ tạo ra một giải pháp mang tính tập quántrong việc giải quyết mâu thuẫn vợ chồng, thể là ly hôn cũng thể là ly thân.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com