Thực trạng quy định của pháp luật về môi trường ở Việt Nam? Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền trong môi trường ở Việt Nam?
1. Pháp luật về môi trường ở Việt Nam:
Trong pháp luật Việt Nam, quyền môi trường được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, tại Điều 43 “Mọi người đều có quyền sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Cũng như pháp luật quốc tế, quyền môi trường, trong pháp luật Việt Nam, có mối liên hệ mật thiết với các quyền con người cơ bản khác, như: Quyền sống được quy định tại điều 19 của Hiến pháp 2013), quyền tiếp cận thông tin (Điều 25, Hiến pháp 2013), quyền về sức khỏe (Điều 20, 38; Hiến pháp 2013), quyền an sinh xã hội (Điều 34, Hiến pháp 2013)...
Cụ thể hoá Điều 43 của Hiến pháp 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định về: hoạt động bảo vệ môi trường, chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường . Các tiêu chuẩn, đánh giá tác động, bảo vệ môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; Bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước; Quản lý chất thải, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường... và các quyền con người liên quan tới tiếp cận thông tin về môi trường – như quyền khiếu nại, tố cáo, bồi thường thiệt hại về môi trường cũng đã được quy định trong Luật này.
– Một số quy định có tầm nhìn tốt:
Luật bảo vệ môi trường 2020 ghi nhận 8 nguyên tắc về bảo vệ môi trường. So với Luật bảo vệ môi trường 2005 đã bổ sung 3 nguyên tắc như: bảo vệ môi trường phải gắn kết với bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó biến đổi khí hậu, sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu chất thải; bảo vệ môi trường phải gắn kết với bảo đảm quyền của trẻ em, thúc đẩy giới và bảo đảm mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành. Các chương, điều của Luật bảo vệ môi trường 2020 đã được xây dựng dựa trên các nguyên tắc này.
Luật bảo vệ môi trường 2020 có quy định về chính sách về nguồn vốn đầu tư, trong đó yêu cầu bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung, các nguồn kinh phí bảo vệ môi trường được quản lý thống nhất và ưu tiên cho các lĩnh vực trọng điểm trong bảo vệ môi trường; gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên với ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH), bảo đảm an ninh môi trường, Nhà nước ghi nhận, tôn vinh cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có những đóng góp tích cực trong bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ yêu cầu cần có một tầm nhìn dài hạn và tổng thể về bảo vệ môi trường, gắn kết thực sự giữa bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế – xã hội, Luật bảo vệ môi trường đã xây dựng mục Quy hoạch bảo vệ môi trường gồm 5 điều với những nội dung cơ bản, có tính nguyên tắc như cấp độ, kỳ quy hoạch, nội dung quy hoạch, trách nhiệm lập quy hoạch, tham vấn, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, rà soát và điều chỉnh quy hoạch. Quy hoạch bảo vệ môi trường phải được xây dựng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và vì vậy phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quy hoạch sử dụng đất. Với những nguyên tắc này, việc xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường không làm đảo lộn các quy hoạch cơ bản hiện có bởi vì nếu làm đảo lộn các quy hoạch cơ bản hiện có, quy hoạch bảo vệ môi trường sẽ không có tính thực thi. Quy hoạch bảo vệ môi trường phải dựa trên hiện trạng tự nhiên, kinh tế, xã hội để phân vùng môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý môi trường, quản lý chất thải, xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường. Trong quy hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia phải có nội dung quy hoạch bảo vệ môi trường cấp vùng và cấp xây dựng, tổ chức thực hiện là Bộ TN&MT. Vì vậy, quy hoạch bảo vệ môi trường chỉ còn 2 cấp độ, quốc gia và cấp tỉnh.
– Các quy định gắn với sự thay đổi không ngừng của môi trường trái đất:
Biến đổi khí hậu là vấn đề lớn của môi trường toàn cầu. Luật bảo vệ môi trường 2020 đã có những quy định liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu. Với chương IV về ứng phó với BĐKH, lần đầu tiên chúng ta luật hóa những quy định về ứng phó với BĐKH trong mối liên quan chặt chẽ với bảo vệ môi trường. Chương ứng phó với BĐKH bao gồm 9 Điều quy định chung về ứng phó với BĐKH; lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quản lý phát thải khí nhà kính; quản lý các chất làm suy giảm tầng ô–zôn; phát triển năng lượng tái tạo; sản xuất và tiêu thụ thân thiện với môi trường; thu hồi năng lượng từ chất thải; quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong ứng phó với BĐKH; phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ ứng phó với BĐKH và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Các quy định tại chương này chỉ mới có tính cơ bản và tính nguyên tắc, làm cơ sở pháp lý để xây dựng các chương trình, kế hoạch, dự án cụ thể trong lĩnh vực ứng phó với BĐKH trong mối liên quan với bảo vệ môi trường. Việc giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải đã được nhấn mạnh bên cạnh việc khuyến khích thu hồi năng lượng từ chất thải. Những quy định này phải được cụ thể hóa trong công tác bảo vệ môi trường để tiến tới mục tiêu hầu hết chất thải được sử dụng lại như là một nguồn tài nguyên chính và lâu dài.
– Hướng đến bảo vệ toàn diện nhiều yếu tố tạo thành môi trường:
Môi trường biển, môi trường các lưu vực sông, môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí … là cấu thành quan trọng của môi trường nói chung. Luật bảo vệ môi trường đã có những quy định hướng đến bảo vệ toàn diện những yếu tố tạo thành môi trường. Cụ thể, để bảo đảm tính hệ thống và toàn diện của lĩnh vực bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ môi trường 2020 có chương riêng về bảo vệ môi trường biển và hải đảo, bao gồm quy định chung về bảo vệ môi trường biển và hải đảo, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo. Luật Bảo vệ TN&MT biển sẽ cụ thể hóa các quy định này và thống nhất với Luật bảo vệ môi trường 2020.
Luật bảo vệ môi trường còn quy định cụ thể về bảo vệ môi trường nước sông. Theo đó, Luật bảo vệ môi trường 2020 quy định các nguồn thải vào lưu vực sông phải được quản lý phù hợp với sức chịu tải của sông, chất lượng nước sông và trầm tích phải được theo dõi và đánh giá, bảo vệ môi trường nước lưu vực sông phải gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học, khai thác và sử dụng nguồn nước sông. Nội dung kiểm soát ô nhiễm và xử lý ô nhiễm môi trường lưu vực sông bao gồm việc thống kê, đánh giá, giảm thiểu và xử lý chất thải đổ vào lưu vực sông; định kỳ quan trắc và đánh giá chất lượng nước sông và trầm tích; điều tra, đánh giá sức chịu tải của sông; công bố các đoạn sông, dòng sông không còn khả năng tiếp nhận chất thải; xác định hạn ngạch xả nước thải vào sông; xử lý và cải thiện môi trường nước sông; quan trắc và đánh giá chất lượng nước sông và trầm tích sông xuyên biên giới...
Luật bảo vệ môi trường 2020 có mục về bảo vệ môi trường đất, bao gồm 3 Điều, trong đó có quy định chung về bảo vệ môi trường đất, quản lý môi trường đất và kiểm soát ô nhiễm môi trường đất. Theo các quy định này, mọi hoạt động có sử dụng đất phải xem xét đến môi trường đất và giải pháp bảo vệ môi trường đất; các tổ chức, cá nhân được giao sử dụng đất phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường đất; gây ô nhiễm môi trường đất phải có trách nhiệm xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết việc kiểm soát ô nhiễm đất để bảo đảm các yếu tố có nguy cơ gây ô nhiễm đất phải được xác định, kiểm soát; cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tổ chức kiểm soát ô nhiễm môi trường đất; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm đất tại cơ sở. Và lần đầu tiên, ô nhiễm dioxin có nguồn gốc từ chất diệt cỏ dùng trong chiến tranh ở Việt Nam (chất da cam/dioxin) đã được quy định trong pháp luật là phải được điều tra, đánh giá, khoanh vùng và xử lý bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường như các chất độc hại khác.
Luật bảo vệ môi trường 2020 có mục riêng về bảo vệ môi trường không khí; quản lý chất lượng môi trường không khí xung quanh; kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Theo các quy định này, các nguồn phát thải khí vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát; tổ chức và cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát thải khí tác động xấu đến môi trường phải có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi trường không khí. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết về nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chủ yếu là quan trắc, thống kê, đánh giá, xả thải bảo đảm khả năng chịu tải của môi trường không khí.
– Quy định chặt chẽ đối với phế liệu, chất thải:
Vấn đề sử dụng phế liệu để tái sản xuất, nhập khẩu phế liệu đã từng bị lạm dụng, tác động tiêu cực đến môi trường. Với những quy định của Luật bảo vệ môi trường 2020 thì vấn đề trên đã được kiểm soát. Luật bảo vệ môi trường 2020 định nghĩa phế liệu là “vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu, sản phẩm đã bị loại từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác“, loại bỏ các quy định “phải được làm sạch, không lẫn vật liệu, hàng hóa cấm nhập khẩu, chất thải, tạp chất nguy hại” vì tính thiếu thực thi, thay bằng phế liệu nhập khẩu phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Theo quy định này, chỉ có những loại phế liệu đã có quy chuẩn kỹ thuật môi trường mới thuộc danh mục phế liệu do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Mặt khác, Luật bảo vệ môi trường 2020 quy định các yêu cầu đối với các tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải có các điều kiện cụ thể, trong đó phải có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng, xử lý tạp chất đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; chỉ nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, phải ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định của Chính phủ. Bộ TNMT đã có Thông tư số 08/2016/TT–BTNMT; số 09/2018/TT–BTNMT về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với 06 nhóm phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
Đối với vấn đề chất thải nguy hại, Luật bảo vệ môi trường 2020 đã quy định rõ hơn về điều kiện của cơ sở xử lý chất thải nguy hại. Điểm mới của quy định về quản lý chất thải nguy hại là Bộ TN&MT quy định danh mục chất thải nguy hại và cấp phép xử lý chất thải nguy hại; Xác định rõ nội dung quản lý chất thải nguy hại trong quy hoạch bảo vệ môi trường do Bộ TN&MT chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Với các quy định này, quản lý chất thải có tính thống nhất với trách nhiệm đầu mối là Bộ TN&MT; cấp tỉnh không còn được cấp phép xử lý chất thải nguy hại.
Luật bảo vệ môi trường 2020 có Chương về xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường thay thế Chương IX về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường. Luật quy định xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và quy định rõ hơn về phòng ngừa sự cố môi trường, ứng phó sự cố môi trường, xây dựng lực lượng ứng phó sự cố môi trường, xác định thiệt hại do sự cố môi trường và trách nhiệm ứng phó sự cố môi trường của tổ chức, cá nhân và các cơ quan quản lý có liên quan.
– Nhiều giải pháp mạnh với vi phạm trong bảo vệ môi trường:
Việc xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được quy định tại Mục 1 Chương X Luật bảo vệ môi trường 2020 và các Nghị định liên quan. Theo đó, nhiều hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bị xử lý hành chính (hình phạt chính và phạt bổ sung) khá nghiêm khắc. Theo đó, Điều 4 Nghị định 155/2016/NĐ–CP, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bị áp dụng một trong hai hình thức xử phạt chính: Cảnh cáo và phạt tiền lên đến 2 tỷ đồng. Cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính phải được đưa vào danh mục kèm theo biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường và thời hạn thực hiện, trừ các trường hợp bị tạm đình chỉ hoạt động hoặc cấm hoạt động. Việc công khai danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được thực hiện cho đến khi cơ sở được chứng nhận đã hoàn thành biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường theo quy định tại Điều 36 Nghị định 19/2015/NĐ–CP. “Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật bảo vệ môi trường” Luật bảo vệ môi trường 2005 liệt kê 15 hành vi bị nghiêm cấm của chủ thể chịu sự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Luật bảo vệ môi trường 2020 đối tượng có hành vi bị nghiêm cấm đối với chủ thể là đại diện Nhà nước trong quản lý môi trường: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định ...”.
Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Theo đó, người vi phạm tùy theo mức độ gây thiệt hại mà có thể bị phạt tù 10–15 năm và bị áp dụng hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1–5 năm và phạt tiền đến 100 triệu đồng. Lợi dụng chức vụ trong quản lý môi trường... bị phạt tới 15 năm tù. Đáng chú ý, Bộ luật Hình sự còn quy định xử phạt đối với pháp nhân phạm tội trong lĩnh vực môi trường.
Tuy nhiên, hiện các biện pháp chế tài chưa đủ mạnh để thực thi quyền môi trường, cũng như còn thiếu các quy định cụ thể liên quan đến các quyền thủ tục. Chẳng hạn, hệ thống pháp luật hình sự hiện chưa quy định chế tài cụ thể đối với những hành vi vi phạm môi trường, đồng thời thiếu các quy định chi tiết về các quyền khiếu kiện của cá nhân đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm. Việc chưa có Tòa án môi trường cũng làm hạn chế khả năng thực hiện quyền môi trường của người dân và bảo vệ môi trường hiệu quả.
2. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền trong môi trường ở Việt Nam:
Pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành không chỉ phụ thuộc vào “hệ thống quy phạm” mà còn phụ thuộc vào quá trình thực hiện cũng như các yếu tố bảo đảm cho các quy phạm được vận dụng tối ưu trong đời sống – xã hội. Các phương thức pháp lý này được tạo ra bởi các quy phạm pháp luật và được thực hiện bởi các chủ thể pháp luật mà trước tiên là cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và cá nhân, tổ chức trong xã hội tham gia quan hệ pháp luật.
Các chủ thể thực hiện các phương thức bảo đảm quyền như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố tâm lý bên trong và môi trường bên ngoài chi phối đến ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý của chủ thể, như: Ý thức tôn trọng pháp luật của cá nhân, cộng đồng; Cơ chế kiểm soát quyền lực công; Sự giám sát của cộng đồng; Tính xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện; Hiểu biết và trình độ pháp luật của các chủ thể cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành.
Ở Việt Nam, pháp luật và các yếu tố tác động đến hiệu quả của pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành đang trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu và có không ít tình huống mâu thuẫn, chồng chéo. Những năm qua, nhiều hành vi xâm hại môi trường gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền này của cộng đồng dân cư ở hầu khắp các địa phương Việt Nam vẫn diễn ra, điển hình như:
Công ty Vedan “giết” sông Thị Vải: “Thành công” suốt 14 năm. Việc Công ty Vedan xả chất độc hại với khối lượng lớn xuống sông Thị Vải trong một thời gian dài, gây ô nhiễm nghiêm trọng dòng sông nhưng không được phát hiện kịp thời và xử lý dứt điểm dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tình trạng này xảy ra do chưa có chế tài nghiêm khắc để răn đe chủ thể kinh doanh, cơ quan thực thi chưa đồng bộ. Ngoài ra, chủ trương ưu tiên phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài cũng tác động không nhỏ đến việc coi thường trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Ngoài ra, có nhiều vụ việc ô nhiễm môi trường bởi hoạt động kinh doanh khác được báo chí đăng tải trong thời gian qua, như vụ gây ô nhiễm đất dẫn đến bệnh lý ung thư ở Thanh Hóa 6; Vụ Nhà máy thép gây ô nhiễm ở Đà Nẵng: Tình trạng xâm nhập mặn, khô hạn nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Vụ việc Formosa xả thải trực tiếp ra biển gây ra thảm hoạ môi trường biển các tỉnh miền Trung, Việt Nam là sự kiện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất, gây hậu quả về kinh tế, chính trị và sức khỏe của cộng đồng dân cư ở phạm vi lớn nhất. Ở phương diện pháp lý và thời gian xử lý hành vi vi phạm, sự cố gây ô nhiễm biển của Công ty FORMOSA được xử lý kịp thời và hành vi xả thải gây ô nhiễm được chấm dứt nhanh chóng. Tuy nhiên, vì phạm vi ảnh hưởng rộng, hậu quả gây ra lớn đối với cuộc sống mưu sinh của nhiều cộng đồng dân cư, nên việc xử lý hậu quả trở nên phức tạp và khó bù đắp được thiệt hại thực tế của người dân.
Việc ô nhiễm môi trường diễn ra trên diện rộng đã ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố cơ bản của quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân, cho thấy các quy định của Luật Bảo vệ môi trường chưa được thực thi có hiệu quả ở Việt Nam. Mỗi hành vi xâm hại môi trường được thực hiện do nhiều nguyên nhân tác động và thúc đẩy, trong đó, chủ yếu các nguyên nhân sau:
Chính sách ưu tiên phát triển kinh tế cao hơn nhu cầu bảo vệ môi trường nên nhiều địa phương đã phá bỏ quy hoạch, sửa quy hoạch hoặc hạ các tiêu chuẩn môi trường, các yêu cầu nghiêm ngặt của pháp luật bảo vệ môi trường, để thu hút các nhà đầu tư.
Bên cạnh bị chi phối bởi tư duy đánh đổi ô nhiễm môi trường để phát triển kinh tế, những mâu thuẫn của pháp luật bảo vệ môi trường về giám sát, phát hiện và xử lý hành vi gây hại môi trường cũng diễn ra trên diện rộng, gây hậu quả nghiêm trọng. Thẩm quyền về lĩnh vực này được phân tán cho nhiều cơ quan chuyên môn khác nhau và phân cấp thành nhiều tầng nấc. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ quan thiếu sự thống nhất, mức độ phân cấp không rõ ràng gây ra những khó khăn nhất định cho việc phát hiện và xử lý kịp thời, dứt điểm của chính quyền cơ sở, cũng như cơ quan phát hiện hành vi gây hại môi trường.
Trong nhiều trường hợp, cơ quan giám sát môi trường, mặc dù có cơ sở để nghi ngờ hành vi xâm hại môi trường đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra nhưng không được pháp luật cho phép kiểm tra trực tiếp nên khó có cơ sở để xử lý kịp thời hành vi xâm hại môi trường hoặc có kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền cao hơn xử lý.
Môi trường trong lành là khách thể trực tiếp của quyền môi trường, nhưng pháp luật vẫn thiếu các cơ chế pháp lý để người dân tự bảo vệ trước các hành vi đe doạ, xâm hại đến môi trường trong lành nơi họ sinh sống. Pháp luật chưa cung cấp đầy đủ các phương tiện pháp lý giúp người dân nắm bắt được kịp thời, đầy đủ thông tin để xác định được nguy cơ tiềm ẩn hành vi xâm hại môi trường nhằm chủ động phòng, chống loại hành vi này.
Bên cạnh thiếu thông tin, người dân chưa được hỗ trợ pháp lý, tinh thần kịp thời từ các tổ chức, chính trị xã hội, cũng như của truyền thông, báo chí nên đa số không thể sử dụng các phương thức pháp lý đấu tranh triệt để với hành vi xâm hại môi trường. Một vấn đề khá phổ biến ở Việt Nam là sự mâu thuẫn gay gắt giữa chính quyền với người dân xảy ra bởi hành vi gây ô nhiễm môi trường của một chủ thể thứ ba thực hiện – là doanh nghiệp. Trong khi đó, theo pháp luật bảo vệ môi trường, các bên trong quan hệ pháp luật môi trường nếu có hành vi xâm hại lẫn nhau về quyền, lợi ích, ngoài con đường tự hoà giải, thương lượng, các bên có quyền yêu cầu Nhà nước (cơ quan nhà nước) làm trọng tài để phán quyết tính đúng, sai và buộc bồi hoàn thiệt hại gây ra.
Hành vi xâm hại môi trường không chỉ xuất phát từ các chủ thể kinh doanh, tổ chức mà còn bởi các cá nhân trong xã hội. Người Việt có nhiều thói quen, tập tục gây hại cho môi trường sống, như: tập tục ma chay; đốt vàng mã; thói quen xả rác ở nơi công cộng – đặc biệt sử dụng và xả thải rác nhựa sử dụng 1 lần; tình trạng sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, thuốc tăng trọng và các loại phụ gia độc hại,...
Mặc dù, pháp luật đã hệ thống hóa tương đối đầy đủ các phương diện pháp lý, kỹ thuật bảo vệ các yếu tố cơ bản của môi trường sống trong lành nhưng trong thực tiễn còn yếu, thiếu và mâu thuẫn, chồng chéo, nên hiệu quả chưa cao. Tình trạng ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí và thực phẩm độc hại cho thấy, mức độ bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam còn thấp.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau kéo thấp mức độ trong lành của môi trường sống, trong đó chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan, điển hình như: Ý thức coi thường pháp luật, coi thường môi trường sống của các doanh nghiệp, nhà đầu tư và của cả người dân; Pháp luật bảo vệ môi trường trong lành còn mâu thuẫn, chồng chéo; Cơ chế pháp lý xử lý hành vi xâm hại môi trường còn thiếu và chưa đủ sức răn đe, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm hại môi trường chưa thực hiện nghiêm minh pháp luật, áp dụng pháp luật thiếu thống nhất; Tổ chức xã hội và báo chí chưa tích cực hỗ trợ người dân bị thiệt hại do hành vi xâm hại môi trường gây ra.