Quy định và kinh nghiệm quản lý cho vay ngang hàng P2P lending ở một số quốc gia Đông Nam Á như: Singapore, Malaysia, Indonesia.
Các quốc gia Đông Nam Á có xu hướng xem cho vay ngang hàng như hoạt động cho vay thực sự và cần được quản lý tương tự như hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD). Từ đó, đưa ra quy định pháp lý đồng thời yêu cầu cơ quan quản lý có biện pháp thường xuyên giám sát, đánh giá tình hình tài chính, thông tin hoạt động của các công ty P2P cũng như đánh giá rủi ro tổng thể của thị trường cho vay ngang hàng.
1. Hoạt động cho vay ngang hàng tại Singapore:
Cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo lợi thế cạnh tranh và năng động của ngành tài chính là Ngân hàng trung ương Singapore (Monetary Authority of Singapore – MAS), theo đó MAS đã đưa ra một loạt các yêu cầu đối với các bên tham gia mô hình tài chính ngang hàng. Theo quy định của Singapore, các nền tảng cho vay P2P bắt buộc phải đăng ký giấy phép dịch vụ thị trường vốn (CMS) từ Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS). Việc công nhận này cung cấp một môi trường được quy định để bảo vệ các bên liên quan có liên quan, đó là cả người cho vay và người đi vay. Để giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, các nền tảng P2P do MAS quy định được yêu cầu tham gia vào một đại lý ký quỹ độc lập để xử lý tất cả các quỹ của nhà đầu tư tách biệt với tài khoản kinh doanh của nó, để đại lý ký quỹ có thể tiếp tục quản lý quỹ ngay cả khi nền tảng đã hoạt động. Điều này tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư.
Số tiền đi vay cá nhân theo quy định tối đa là 100.000 USD, người đi vay phải viết giấy xác nhận nợ cho nhà đầu tư, đây là căn cứ pháp lý để xác định người đi vay phải trả nợ cho nhà đầu tư vào một ngày cụ thể trong tương lai; bên cạnh đó, các công ty P2P lending phải đảm bảo rằng người đi vay phải nắm rõ quy định này
2. Hoạt động cho vay ngang hàng tại Malaysia:
Ủy ban chứng khoán quốc gia (SC) giữ vai trò chính trong việc quản lý mô hình cho vay ngang hàng (do quan niệm đây là hình thức đầu tư vốn). Năm 2016, Ủy ban Chứng khoán Quốc gia Malaysia (SC) ban hành các quy định và đưa Malaysia trở thành quốc gia ASEAN đầu tiên luật hóa mô hình tín dụng ngang hàng, theo quy định các công ty P2P Lending phải được SC chấp thuận mới được hoạt động.
Để đảm bảo hoạt động P2P Lending được thực hiện một cách có hệ thống và không ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống tài chính, SC đã xây dựng khung quản lý P2P lending. SC đã ban hành các quy định nghiêm ngặt trong việc quản lý các công ty P2P, trong đó một số điểm đáng chú ý như:
Về các công ty cung cấp nền tảng P2P phải có nghĩa vụ tuân thủ đạo luật Companies Act 1965. Chỉ có các công ty Malaysia với số vốn thực góp tối thiểu 5 triệu ringgit (khoảng 1,2 triệu USD) mới được cung cấp nền tảng và dịch vụ cho vay P2P. Người điều hành của công ty phải chứng minh mình có năng lực và kiến thức phù hợp để vận hành doanh nghiệp. Ngoài ra các công ty cũng phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng minh bạch và hiệu quả, có tránh nhiệm thẩm định người đi vay và có kế hoạch theo dõi, bảo đảm người vay phải tuân thủ đúng các quy định của hợp đồng và số tiền gửi của nhà đầu tư và người đi vay phải được gửi tại tài khoản ủy thác của bên thứ 3 trước khi thực hiện bất kỳ giao dịch nào.
Các công ty phải đảm bảo hồ sơ của người đi vay nộp cho công ty P2P lending được xác minh về tính chính xác và các nhà đầu tư có thể truy cập đầy đủ hồ sơ của người đi vay được thông qua nền tảng và thông báo cho nhà đầu tư về bất kỳ thay đổi bất lợi nào về hồ sơ của người đi vay. Một công ty nước ngoài sẽ cần mở một công ty con tại Malaysia nếu muốn cung ứng hoạt động P2P lending.
Về phía nhà đầu tư, nhà đầu tư có thể đầu tư vào bất kỳ người cho vay nào được lưu trữ trên nền tảng P2P lending và sẽ không bị hạn chế về số tiền đầu tư của ILU mình. Tuy nhiên để quản lý rủi ro của các nhà đầu tư, các công ty P2P lending phải khuyến khích các nhà đầu tư bán lẻ hạn chế đầu tư của họ trên bất kỳ nền tảng P2P lending, tối đa là 50.000 RM vào bất kỳ thời điểm nào. Các công ty P2P lending có thể yêu cầu các nhà đầu tư nộp một tờ khai xác nhận sự tuân thủ của họ về các giới hạn.
Liên quan đến tài khoản ủy thác liên quan đến tiền nhận được trả cho nhà đầu tư thì công ty P2P lending sẽ thiết lập và duy trì trong một tổ chức được cấp phép, một hoặc nhiều tài khoản ủy thác được chỉ định cho các khoản tiền được nhận làm khoản hoàn trả cho các nhà đầu tư và công ty P2P lending không được rút tiền hoặc giao dịch các khoản tiền của nhà đầu tư trong tài khoản ủy thác trừ mục đích thanh toán cho người được hưởng (người đi vay, nhà đầu tư hoặc nhà điều hành P2P) hay theo chỉ dẫn của SC hoặc bởi bất kỳ cơ quan thực thi nào khác theo quy định của pháp luật .
SC không đặt giới hạn số tiền mà doanh nghiệp có thể huy động qua hình thức cho vay ngang hàng. Song doanh nghiệp chỉ có thể được giải ngân khi huy động được trên 80% số vốn họ mong muốn. Mặc dù vậy, doanh nghiệp được phép huy động vốn trên nhiều nền tảng P2P cùng lúc. Ngoài ra còn có các quy định về quy trình về phòng chống rửa tiền; có các quy trình hoặc chính sách để quản lý bất cứ vi phạm nào của người đi vay bao gồm cả việc đòi lại các khoản nợ từ người đi vay để trả cho nhà đầu tư hay việc đảm bảo lãi suất không vượt mức 18% mỗi năm và nếu muốn tăng lãi suất lên hơn 18%/năm, các công ty P2P lending phải tham vấn ý kiến của SC
3. Hoạt động cho vay ngang hàng tại Indonesia:
Hoạt động Fintech ở Indonesia chịu sự quản lý của Ngân hàng trung ương Indonesia (BI) và Cơ quan Dịch vụ tài chính Indonesia (Otoritas Jasa Keuangan – OJK). BI ban hành chính sách liên quan đến hoạt động thanh toán và khung pháp lý thử nghiệm (sandbox) cho các công ty Fintech trong lĩnh vực thanh toán. OJK giám sát, điều tiết khu vực dịch vụ tài chính kể cả hoạt động P2P Lending, huy động vốn từ cộng đồng (crowdfunding), ngân hàng số (digital banking), công nghệ bảo hiểm (Insurtech), hoạt động Fintech thị trường vốn, tài trợ trực tuyến, an ninh dữ liệu và bảo vệ người tiêu dùng.
OK ban hành quy tắc khi dịch vụ hoặc sản phẩm tài chính đã phát triển trên thị trường và xây dựng khung quản lý POJK77 cho phép Fintech tăng trưởng bền vững, đạt mục tiêu tài chính toàn diện, bảo vệ được khách hàng, trong đó có một số quy định cần lưu ý như:
Các công ty cho vay P2P ở Indonesia được điều chỉnh theo Quy định số 77/POJK.01 / 2016 của OJK về cho vay dựa trên công nghệ thông tin. Để được cung ứng hoạt động P2P Lending, công ty P2P lending phải tuân thủ các quy định về đăng ký với OJK và trong vòng 1 năm sau khi đăng ký họ có thể có được giấy phép P2P lending nếu đáp ứng các yêu cầu về mặt cấp phép. Để có giấy phép hoạt động P2P lending, công ty Fintech phải đáp ứng 11 thủ tục vận hành chuẩn (SOP); nếu không thể đáp ứng các yêu cầu, trạng thái đăng ký của công ty sẽ bị hủy.
Cơ quan quản lý Dịch vụ Tài chính (OJK) thuộc NHTW ban hành những quy định về vốn tối thiểu khi đăng ký và hoạt động (1 triệu rupiah tương đương khoảng 67.000 USD khi đăng ký và 2,5 triệu rupiah để được chính thức cấp giấy phép kinh doanh) và hạn chế sở hữu nước ngoài trong các công ty P2P lending (tỷ lệ sở hữu tối đa là 85%, bao gồm cả sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp). Thành phần ban lãnh đạo công ty cần có ít nhất 1 Giám đốc và 1 ủy viên có kinh nghiệm ít nhất 1 năm trong ngành lĩnh vực dịch vụ tài chính và sử dụng nguồn nhân lực có chuyên môn và hoặc có nền tảng về công nghệ thông tin.
Một yêu cầu khác là các nhà cung cấp dịch vụ cho vay P2P phải là thành viên của Hiệp hội Fintech Indonesia (AFPI), tổ chức bảo trợ đại diện cho ngành và phải tuân thủ quy tắc đạo đức của tổ chức và các cam kết liên quan. Các công ty phải đặt máy chủ ở Indonesia; duy trì một hệ thống điện tử an toàn và đáng tin, đảm bảo an toàn thông tin và bảo vệ dữ liệu khách hàng và nộp báo cáo định kỳ cho OJK (hàng tháng và hàng năm).
Các công ty P2P phải ký quỹ và có tài khoản định danh tại ngân hàng trong thời gian hoạt động; có quy trình vận hành chuẩn đối với chứng từ điện tử và thực hiện các nguyên tắc cơ bản về bảo vệ người dùng, đảm bảo tính minh bạch, công bằng, bảo mật dữ liệu và an ninh mạng cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản, dễ dàng [8]. Khi mua lại một công ty P2P lending, POJK77 yêu cầu phải có sự đồng ý trước từ OJK cho bất kỳ thay đổi nào trong cổ phần của công ty P2P lending.
Về giới hạn cho vay và yêu cầu giám sát: POJK77 quy định chỉ những công dân Indonesia cư trú ở Indonesia mới đủ điều kiện là người đi vay. Số tiền vay tối đa cho mỗi người đi vay là mức 2 tỷ IDR (hoặc khoảng 160.000 USD). những người cho vay P2P phải trải qua một cuộc phỏng vấn với OJK như một phần của giai đoạn đăng ký và cấp giấy phép kinh doanh. POJK77 yêu cầu hai thỏa thuận riêng biệt phải được ký kết giữa bên cho vay và công ty P2P lending; và thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay.
Cả hai thỏa thuận phải được thực hiện theo quy định trong POJK77, trong đó có các thông tin về số tiền vay (bao gồm số tiền phạt trong trường hợp chấm thanh toán), lãi suất, quyền và nghĩa vụ của các bên và cơ chế giải quyết tranh chấp, hình thức của các thỏa thuận là thỏa thuận điện tử và chữ ký điện tử. Họ cũng chỉ được phép hợp tác với một tổ chức quản lý thông tin tín dụng đã được OJK cấp phép và phải có thỏa thuận để giảm thiểu rủi ro tín dụng của người cho vay và người đi vay, chẳng hạn như ký kết thỏa thuận với nhà cung cấp bảo hiểm tín dụng .
Về các hành vi bị cấm: Nghiêm cấm Công ty P2P lending cung cấp bất kỳ sự bảo đảm nào, đồng thời, quy định cũng yêu cầu công ty P2P lending phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất nào do lỗi hoặc sơ suất của giám đốc hoặc nhân viên của công ty mình; tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác ngoài các hoạt động trong phạm vi kinh doanh của mình; hoạt động như người cho vay hoặc người đi vay; phát hành các phiếu ghi nợ; giới thiệu người cho vay hoặc người đi vay; quảng cáo sai sự thật hoặc cung cấp thông tin sai lệch; thu phí từ người cho vay và người đi vay khi họ nộp đơn khiếu nại. Cấm mô hình cho vay bảng cân đối kế toán, đặt ra cơ chế cấp phép hai cấp và yêu cầu bảo vệ khách hàng. Ngoài ra cũng đưa ra các chương trình phòng chống rửa tiền và chống khủng bố.
Bên cạnh đó, sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành cho vay P2P cũng cho thấy rõ ràng rằng OJK cần hợp tác chặt chẽ với ngành để đảm bảo sự phát triển của những người cho vay có trách nhiệm. OJK phối hợp cung cấp dữ liệu đầu vào khi BI ban hành Quy định về Fintech. Khi OJK soạn thảo quy tắc chi phối ngành công nghiệp Fintech, thì OJK cũng yêu cầu dữ liệu đầu vào từ BỊ. Đối với các vấn đề về công nghệ, OJK phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông. Đối với các vấn đề liên quan đến kinh doanh, OJK phối hợp với BI, Bộ Tài chính và Bộ Hợp tác Kinh tế. Sự phối hợp này sẽ giúp cho việc quản lý hoạt động cho vay ngang hàng ở Indonesia hiệu quả hơn.