Quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng vô hiệu? Quy định của pháp luật về việc giải quyết bồi thường thiệt hại khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu?
“Bản chất của hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể trong xã hội, thông qua đó xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý” . Như vậy, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, ngoài việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận thì nếu bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu mà gây thiệt hại cho bên kia và nếu có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét giải quyết. Khi xem xét yêu cầu bồi thường thiệt hại thì Thẩm phán phải xem xét mức độ lỗi của bên làm cho hợp đồng vô hiệu mà gây thiệt hại để xác định mức bồi thường thiệt hại tương ứng.
Khi xác định được mức độ lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu thì việc quan trọng tiếp theo phải xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi như thế nào? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dân sự là biện pháp chế tài về tài sản đối với người gây thiệt hại với người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nghĩa là đã có thiệt hại và phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Nguyên tắc thiệt hại phải tính toán được bằng tiền để thực hiện việc bồi thường, bù đắp, khôi phục lại tổn thất cho người bị thiệt hại một cách nhanh chóng, toàn bộ, kịp thời, hình thức bồi thường có thể bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc. Bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu với mục đích đưa các bên trở về tình trạng như lúc hợp đồng chưa được giao kết.
Như vậy, câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người phải bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu?. Trong trường hợp, hợp đồng vô hiệu nếu có thiệt hại xảy ra thì rõ ràng bên làm cho hợp đồng bị vô hiệu là người phải có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự quy định về hành vi cố ý của bên làm cho hợp đồng bị vô hiệu có thể trở thành yếu tố dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vô hiệu hoàn toàn thuộc về bên cố ý, mà có trường hợp trách nhiệm còn phụ thuộc vào cả bên người ngay tình. Trong đó, có thể chia làm hai trường hợp:
Một là, bên ngay tình là người thuần túy bị bên kia cố ý làm cho hợp đồng bị vô hiệu, họ hoàn toàn không có khả năng nhận biết rằng mình bị lừa;
Hai là, bên ngay tình cũng có lỗi trong việc để mình bị lừa, nghĩa là họ có khả năng nhận biết được nhưng do sơ suất, bất cẩn, chủ quan mà để cho mình bị lừa.
Nếu bên ngay tình rơi ở trường hợp một thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đương nhiên thuộc về bên cố tình làm cho hợp đồng bị vô hiệu, lỗi để cho hợp đồng vô hiệu thuộc hoàn toàn là của bên cố ý. Nếu bên ngay tình rơi vào trường hợp hai tức là bên ngay tình cũng có lỗi để cho hợp đồng vô hiệu thì tùy theo mức độ lỗi của các bên mà có mức bồi thường tương ứng. Tuy nhiên, trong trường hợp thiệt hại phát sinh các bên đều có lỗi thì cũng không đồng nghĩa với việc hai bên có lỗi bằng nhau, việc xác định lỗi và mức độ lỗi trong trường hợp này tùy thuộc vào tính chất của từng vụ việc, căn cứ vào chứng cứ chứng minh và đánh giá của người giải quyết vụ án mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên.
Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu cần phải hội đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, yếu tố lỗi và hành vi trái pháp luật. Lỗi được coi là một trong những điều kiện cơ bản để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu. Vấn đề xác định lỗi dựa trên ý chí cơ sở xác định ý chí đích thực của các chủ thể tham gia hợp đồng tại thời điểm ký kết có ý nghĩa quan trọng khi xác định trách nhiệm dân sự đối với chủ thể có hành vi vi phạm, vì nó quyết định đến hậu quả pháp lý mà các bên phải gánh chịu. Tuy nhiên, cần xác định chính xác lỗi nào làm cho hợp đồng bị vô hiệu. Do hành vi cố ý của một bên nên nếu bên cố ý cho rằng bên ngay tình cũng có lỗi để cho hợp đồng vô hiệu để được chia trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh vì lỗi của bên ngay tình không thể là lỗi mặc định, suy đoán mà phải được chứng minh.
Thứ hai, xác định thiệt hại thực tế phát sinh. Khi một hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì sẽ đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu. Trên tinh thần, “bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”, như vậy, việc phải có thiệt hại là một trong những điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, không có thiệt hại thì không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Thiệt hại là sự mất mát mà chủ thể của quan hệ pháp luật phải gánh chịu . BLDS năm 2015 không quy định cụ thể thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu bao gồm những gì.
Để xác định đúng các thiệt hại khi giải quyết tranh chấp nếu các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá tài sản và giá trị thiệt hại thì tùy từng trường hợp mà có thể căn cứ vào quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 Tòa án có thể yêu cầu cơ quan chuyên môn thẩm định giá hoặc thành lập hội đồng định giá. Nói chung, có thiệt hại là một trong những điều kiện cơ bản để xác lập trách nhiệm bồi thường thiệt hại và thiệt hại dẫn đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại trên nguyên tắc phải là thiệt hại hiện hữu chứ không phải thiệt hại giả định hoặc thiệt hại dự kiến trong những hoàn cảnh không chắc sẽ xảy ra trong tương lai.
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa lỗi, thiệt hại thực tế và trách nhiệm bồi thường. Người thực hiện hành vi cố ý làm cho hợp đồng bị vô hiệu và gây ra thiệt hại thì phải bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh sau khi xảy ra hành vi gây thiệt hại của mình nhưng chỉ những thiệt hại nào là hệ quả tất yếu của hành vi cố ý của bên lừa dối gây ra thiệt hại mới thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên cố ý.
Sẽ không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu không có quan hệ nhân quả giữa lỗi của bên làm cho hợp đồng vô hiệu và thiệt hại thực tế xảy ra, vì có trường hợp chủ thể trong hợp đồng có lỗi nhưng không gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không đặt ra.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 131 của BLDS năm 2015 chỉ quy định “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”, như vậy, về nguyên tắc, khi một bên có lỗi thì phải bồi thường quy định này là cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bên không có lỗi bị thiệt hại. Những vấn đề là tại Điều 131 của BLDS năm 2015 không quy định cụ thể lỗi như thế nào? Thiệt hại phải bồi thường gồm những gì? Trong xác định thiệt hại còn có một vấn đề xác định những hao mòn, hư hỏng do con người tác động làm giảm giá trị của tài sản là thiệt hại buộc bên có lỗi phải bồi thường.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trượt giá của tài sản – đối tượng của hợp đồng và trượt giá của đồng tiền có được coi là thiệt hại xảy ra không? Trên thực tế, vấn đề trượt giá không thể coi là thiệt hại, vì sự biến động này hoàn toàn là do quy luật kinh tế khách quan, không liên quan trực tiếp đến việc xác lập hợp đồng giữa các bên, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó không có việc vi phạm nghĩa vụ khi nghĩa vụ đó không có. Mặc dù vậy, trượt giá gây thiệt hại cho bất cứ bên nào đều phát sinh trách nhiệm bồi thường. Khi xác định trách nhiệm phải căn cứ theo lỗi để buộc bên gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định pháp luật.
Trong các BLDS trước đây, xác định thiệt hại trong hợp đồng chỉ có thiệt hại vật chất thì nay theo quy định của BLDS năm 2015 nếu vi phạm hợp đồng mà gây thiệt hại tinh thần thì phải bồi thường. Vấn đề này được quy định cụ thể tại khoản 3, Điều 419 của BLDS năm 2015: “3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền ...”.
Ngoài ra, Điều 360 của BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại ...” và khoản 1, Điều 361 của BLDS năm 2015 quy định: “1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ sẽ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần”. Đồng thời theo khoản 4, Điều 131 của BLDS năm 2015 quy định chung về hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”, như vậy bồi thường ở đây là bồi thường thiệt hại trên thực tế và cả bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Việc pháp luật quy định bên có lỗi trong hợp đồng vô hiệu ngoài việc bồi thường thiệt hại về vật chất còn phải bồi thường thiệt hại về tinh thần là một quy định chuẩn xác và toàn diện. Bởi lẽ, đối với nhóm hành vi lừa dối, giả tạo, đe dọa, cưỡng ép... thì ngoài việc khiến hợp đồng vô hiệu nó còn vi phạm về mặt đạo đức, khi giao kết hợp đồng thì rõ ràng một bên trong hợp đồng đã rất tin tưởng đặt hết niềm tin và hi vọng vào việc ký kết hợp đồng này để đạt được mục đích mà họ hướng tới. Trong khi bên kia cố ý gian dối khi ký kết hợp đồng để được hưởng lợi.
Ví dụ, ông A đã dùng số tiền bán hết tài sản ở quê dắt díu hết cả gia đình lên thành phố để mưu sinh, ông đã ký kết hợp đồng mua lại căn nhà của ông B giá là 500.000.000đ (tất cả tài sản mà gia đình ông có được). Sau đó, hợp đồng mua bán nhà này bị Tòa án tuyên vô hiệu do lừa dối, ông B trả lại cho ông A 500.000.000đ và bồi thường thiệt hại cho ông A một số tiền, ông A phải giao nhà lại cho ông B. Trường hợp thứ nhất, ông B có thể trả lại đầy đủ tiền cho ông A và cộng thêm một khoản bồi thường thì ông A cũng không thể tìm mua được căn nhà khác cho gia đình bằng số tiền đó vì thị trường bất động sản biến động theo từng giờ, từng ngày với số tiền đó tại thời điểm hiện tại ông A không thể mua được căn nhà nào khác cho gia đình.
Đồng thời, việc hợp đồng bị vô hiệu ông A phải trả lại nhà, việc này đã làm cho gia đình ông A phải mệt mỏi, căng thẳng về tinh thần và sức khỏe của ông A bị sa sút trầm trọng. Ngoài ra, gia đình ông A không có chỗ ở ổn định làm dang dở việc học hành của các con ông hay vợ ông vì buồn phiền mà sinh bệnh. Rõ ràng, việc ông B lừa dối ông A để ký kết hợp đồng ngoài việc làm cho hợp đồng vô hiệu thì đã gây ra nhiều tổn thất sức khỏe, tinh thần đối với cả gia đình ông A.
Trường hợp hai, giả xử án có hiệu lực rồi ông A bắt buộc phải giao trả lại nhà nhưng tiền ông A giao ông B thì ông B đã tiêu xài cá nhân hết và bản thân ông B không có tài sản gì giá trị, việc làm không ổn định thì cơ quan Thi hành án dân sự lấy tài sản đâu để thi hành cho ông A? Trường hợp này pháp luật không có quy định chế tài gì đối với ông B, nếu có dấu hiệu lừa đảo thì ông B sẽ bị xử lý hình sự nhưng nếu trong trường hợp này chỉ là giải quyết về dân sự do có hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng thì pháp luật chưa bảo vệ được quyền lợi của ông A.
Do đó, khi hợp đồng vô hiệu, ngoài việc người có lỗi phải bồi thường những khoản thiệt hại thực tế theo quy định của pháp luật thì khi bên ngay tình có yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần, Tòa án phải xem xét giải quyết và trong trường hợp này, bên ngay tình không cần thiết phải chứng minh thiệt hại về tinh thần vì việc chứng minh thiệt hại về tinh thần trên thực tế là một điều rất khó khăn, phức tạp.
Điều này có nghĩa mặc nhiên là khi hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối thì nếu có thiệt hại xảy ra thì ngoài bồi thường các khoản thiệt hại thực tế còn phải bồi thường thiệt hại về tinh thần khi bên bị lừa dối có yêu cầu. Nhưng không có nghĩa là Tòa án sẽ chấp nhận mọi yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần của bên ngay tình mà Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu đối với trường hợp bên ngay tình hoàn toàn không có lỗi, lỗi hoàn toàn là của bên cố ý và cái gọi là tiền bồi thường để bù đắp tổn thất tinh thần mang tính chất của một hình phạt nhiều hơn là của một biện pháp bồi thường ngang giá.
Việc quy định như vậy sẽ thể hiện được tính răn đe cao của pháp luật, các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng nếu có ý định dùng hành vi gian dối để bên kia ký kết hợp đồng với mình thì cũng sẽ e dè, cẩn trọng hơn, từ đó, hạn chế được tình trạng các hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.