Nguyên tắc giao kết hợp đồng học nghề? Trình tự giao kết hợp đồng học nghề? Thực hiện hợp đồng học nghề? Chấm dứt hợp đồng học nghề? Giải quyết tranh chấp về hợp đồng học nghề?
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng học nghề:
Thứ nhất, nguyên tắc tự do, tự nguyện
Dưới góc độ pháp luật lao động, nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những hành vi cản trở trái với ý chí của mình.
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí đó qua những điều khoản của nội dung hợp đồng là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thể hiện trong mặt chủ quan của người tham gia lập ước, nghĩa là khi tham gia giao kết, các chủ thể hoàn toàn tự do về mặt ý chí và tự nguyện về mặt lý trí. Theo đó, mọi hành vi lừa gạt, dụ dỗ, cưỡng bức...trong giao kết sẽ dẫn đến hợp đồng học nghề bị vô hiệu.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xác lập quan hệ hợp đồng học nghề, nguyên tắc này biểu hiện rất đa dạng và phức tạp. Tính tự do, tự nguyện khi giao kết hợp đồng học nghề trong nhiều trường hợp thể hiện không rõ ràng và rất mơ hồ. Chẳng hạn khi ký kết hợp đồng học nghề, trên thực tế cơ sở đào tạo thường đưa ra bản hợp đồng mẫu với điều khoản đã được ấn định. Đối với người học nghề, nếu đồng ý thì ký vào bản hợp đồng, nếu không thì hợp đồng học nghề không được xác lập và sự bày tỏ ý chí để đi đến sự thỏa thuận thống nhất giữa hai bên đều không có. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp này cơ sở đào tạo đã áp đặt quan hệ, vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện. Tuy nhiên, nhận thấy rằng, ở đây, cơ sở đào tạo nghề không bắt buộc người học nghề phải ký vào bản hợp đồng. Họ đưa ra bản hợp đồng để thể hiện trước nội dung và ý chí không thay đổi của mình. Quyết định cuối cùng có giao kết hợp đồng học nghề hay không? vẫn thuộc về người học nghề. Do đó, không thể nói rằng cơ sở đào tạo vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện. Mặc dù vậy, xét dưới góc độ ý chí và biểu lộ ý chí, cách tiến hành giao kết quan hệ như trên chưa phù hợp với bản chất của việc giao kết hợp đồng học nghề. Do nhu cầu cấp bách của công việc, người học nghề có thể vẫn ký hợp đồng học nghề trong trường hợp này mà trong đó có những nội dung họ chưa thấy phù hợp bởi họ không có lựa chọn nào khác.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng
Nếu như nguyên tắc tự do, tự nguyện nói đến yếu tố chủ quan thì nguyên tắc bình đẳng nói lên tư cách pháp lý của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng học nghề. Theo nguyên tắc này, cơ sở đào tạo nghề và người học nghề có sự ngang bằng về vị trí, tư cách, địa vị pháp lý và phương thức biểu đạt trong quan hệ giao kết hợp đồng học nghề. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ phải bình đẳng với nhau, không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo...để tạo ra sự bất bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Bất cứ hành vi xử sự nào nhằm tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể giao kết đều được coi là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, trong giao kết hợp đồng học nghề sự bình đẳng chỉ diễn ra một cách tương đối. Bởi khi tham gia giao kết hợp đồng học nghề giữa các chủ thể đã thể hiện bất bình đẳng với nhau.
Cơ sở đào tạo nghề được coi là bên có quyền nhiều hơn vì họ đã bỏ công sức, tài chính để xây dựng trung tâm đào tạo nghề còn người học nghề là người đang muốn tìm, muốn học hỏi một nghề nào đó; Sau đó, dùng những kiến thức và kỹ năng thực hành nghề đã học được để tự tạo việc làm hoặc tìm việc làm có thu nhập nuôi sống bản thân. Mặt khác, người học nghề còn phụ thuộc vào ý chí của cơ sở dạy nghề rất nhiều bởi vì sau khi học xong, họ có được nhận vào làm tại cơ sở, doanh nghiệp đó không là một sự thỏa thuận được ghi trong hợp đồng học nghề. Sự không bình đẳng này xuất phát từ sự khác biệt về địa vị kinh tế, việc có được sự bình đẳng trong quan hệ học nghề là một điều rất khó khăn. Vì vậy, nguyên tắc bình đẳng trong hợp đồng học nghề được nhấn mạnh chủ yếu ở khía cạnh pháp lí của quan hệ.
Thứ ba, nguyên tắc không trái pháp luật
Pháp luật quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có thể thỏa mãn nhu cầu của mình. Dựa trên nguyên tắc này, việc tham gia quan hệ học nghề hay không là do các bên tự quyết định bằng hành vi giao kết hợp đồng học nghề. Khi giao kết hợp đồng học nghề, nguyên tắc tự do, tự nguyện là sự tôn trọng cái riêng tư của các bên trong quan hệ học nghề, tức là một bên có quyền tham gia giao kết hợp đồng học nghề với chủ thể khác, thời gian học bao lâu, nội dung trong hợp đồng như thế nào do các chủ thể hoàn toàn quyết định.
Tuy nhiên, sự tự do ý chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định, hợp đồng học nghề chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Khi thực hiện quan hệ hợp đồng học nghề, vì những lý do khách quan hay chủ quan mà trong quá trình thực hiện dẫn đến vi phạm những điều khoản trong hợp đồng. Lúc này các quy định của pháp luật về hợp đồng học nghề sẽ đảm bảo quyền và lợi ích của các bên. Các cam kết trong hợp đồng học nghề sẽ được thực hiện vào trong thực tế.
Hình thức hợp đồng học nghề
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới dạng cách thức nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của giao kết đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận các quan hệ dạy và học nghề đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Theo quy định của pháp luật, hình thức của hợp đồng có thể là lời nói hoặc bằng văn bản. Tuy nhiên, việc giao kết hợp đồng học nghề theo hình thức nào không phải là sự tùy liệu của các bên mà phải tuân theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 1 Điều 62 Bộ luật lao động 2019 có quy định, hợp đồng học nghề phải được ký kết bằng văn bản trong các trường hợp:
– Người lao động được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, đào tạo lại ở trong nước hoặc ở nước ngoài;
– Bằng kinh phí của người sử dụng lao động; kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.
Hợp đồng này được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản có giá trị pháp lý như nhau. Việc đưa ra hình thức bắt buộc trong những trường hợp trên là nhằm mục đích lưu ý các bên cần trọng khi giao kết hợp đồng học nghề và nhằm đảm bảo tính chi tiết cụ thể của việc tồn tại các quyền và nghĩa vụ của các bên. Đồng thời đây là bằng chứng rõ ràng nhất khi xảy ra tranh chấp về sau.
Hợp đồng bằng lời nói do các bên thống nhất thông qua sự thỏa thuận bằng ngôn ngữ mà không lập thành văn bản. Hợp đồng bằng lời nói chỉ được sử dụng trong một số trường hợp mà nội dung thỏa thuận đơn giản và thời hạn học nghề ngắn.
Có thể nói, hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung của hợp đồng và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng hình thức hợp đồng học nghề cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thực hiện hợp đồng học nghề.
2. Trình tự giao kết hợp đồng học nghề:
Quá trình xác lập hợp đồng học nghề là giai đoạn đầu tiên và quan trọng trong thời gian học nghề. Nó thể hiện sự hợp tác và thống nhất ý chí nhằm thiết lập nên quan hệ nhọc nghề giữa các chủ thể. Thời điểm này các bên bắt đầu có sự tiếp xúc nhau. Từ đó người học nghề cũng như cơ sở dạy nghề sẽ lựa chọn và đưa ra quyết định chính thức về việc ký kết hợp đồng học nghề.
Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể vấn đề này nhưng cũng giống như giao kết các hợp đồng khác, quá trình giao kết hợp đồng học nghề diễn ra theo ba bước: Đề nghị giao kết hợp đồng, hai bên thỏa thuận các nội dung và vấn đề liên quan đến hợp đồng học nghề, giao kết hợp đồng. Trên thực tế, cơ sở dạy nghề thường là bên đề nghị giao kết hợp đồng, thể hiện ở việc thông báo tuyển sinh hoặc tuyển người vào học nghề để sử dụng. Nội dung của hợp đồng học nghề và những vấn đề có liên quan khác thường do cơ sở dạy nghề ấn định, trên cơ sở đó, người học nghề chấp nhận hoặc có sự chỉnh sửa ở mức độ nhất định trước khi hai bên chính thức giao kết hợp đồng học nghề. Trên thực tế sẽ phát sinh những trường hợp cụ thể như sau:
Thứ nhất, một trong các bên sẽ đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng
Khi các bên có nhu cầu giao kết hợp đồng học nghề thì phải biểu lộ nhu cầu đó ra bên ngoài dưới một hình thức nào đó. Ví dụ tại địa bàn tỉnh Đồng Tháp thì khi có nhu cầu giao kết hợp đồng học nghề nào đó: Cơ sở dạy nghề thường thể hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông báo trước cổng doanh nghiệp, nơi công cộng hay qua các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm để tuyển sinh hoặc tuyển người vào học nghề để sử dụng. Kèm theo thông báo là yêu cầu đối với người học nghề về tuyển sinh như: trình độ văn hóa của người học, sức khỏe, giới tính, cam kết sau khi học xong làm việc cho doanh nghiệp...
Người học nghề khi tiếp nhận được thông tin nói trên, nếu có nhu cầu học nghề và xét thấy phù hợp, đáp ứng được yêu cầu có thể trực tiếp đến cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp hay trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm để bày tỏ nguyện vọng của mình. Giai đoạn này các bên chưa có sự chi phối lẫn nhau và họ có thể chấm dứt quan hệ ngay từ lần đầu gặp gỡ nếu thấy không phù hợp mà không hề có sự ràng buộc pháp lý nào.
Thứ hai, hai bên thỏa thuận nội dung và các vấn đề liên quan đến hợp đồng học nghề
Xét về phương diện pháp lý, giai đoạn này chưa làm này phát sinh quyền và nghĩa vụ cụ thể, hai bên chỉ cần tuân thủ các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng. Nếu nội dung trong hợp đồng học nghề không được thống nhất hay việc thỏa thuận không đạt được kết quả thì giữa các bên không có sự ràng buộc về mặt pháp lý. Chẳng hạn, cơ sở giáo dục nghề không thể yêu cầu người học nghề bồi thường vì đã làm mất thời gian của họ và vì không thỏa thuận thành công nội dung của hợp đồng học nghề. Đồng thời, người học nghề cũng không thể yêu cầu cơ sở dạy nghề bồi thường chi phí đi lại cho mình vì không giao kết được hợp đồng học nghề.
Tuy nhiên, xét về mặt thực chất của quá trình giao kết hợp đồng, đây là giai đoạn quan trọng, bởi vì quan hệ học nghề có đạt được yêu cầu, có hài lòng hay không phụ thuộc vào thái độ thiện chí, hợp tác khi thương lượng, thỏa thuận nội dung hợp đồng học nghề của hai bên. Song trên thực tế, quá trình thỏa thuận, thống nhất ý chí về các vấn đề trong hợp đồng học nghề này dường như không có và nếu có sẽ không được thực hiện với ý nghĩa đích thực của nó. Thông thường, nội dung của hợp đồng học nghề và những vấn đề liên quan khác thường do cơ sở dạy nghề ấn định trước nội dung.
Trên cơ sở đó, người học nghề xem xét, chấp nhận hoặc có sự chỉnh sửa ở mức độ nhất định trước khi hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Cách làm này có ưu điểm là không mất nhiều thời gian cho cơ sở dạy nghề nhưng họ lại không tạo được thiện cảm và cơ hội hiểu biết lẫn nhau với người học nghề. Nếu hợp đồng học nghề được xây dựng dựa trên sự bàn bạc, thảo luận, thống nhất thì mối quan hệ giữa người học nghề và cơ sở dạy nghề sẽ tốt đẹp hơn so với việc có sẵn nội dung một bản hợp đồng. Người học nghề không được thỏa thuận, thương lượng nội dung hợp đồng đào tạo nghề nhưng vì nhu cầu công việc mà họ vẫn ký kết trong khi các quyền và lợi ích hợp pháp hoặc các điều kiện học nghề khác trong hợp đồng chưa phản ánh đúng, đầy đủ và các nguyện vọng của họ. Xét về mặt pháp lý, cách làm này không thể coi là bị vi phạm, nhưng nó không phản ánh đúng bản chất của quan hệ hợp đồng là cùng nhau thỏa thuận. Điều này có thể tạo ra những mầm mống bất lợi trong quá trình đào tạo giữa hai chủ thể mà khi giao kết hợp đồng ta chưa nhận ra được. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng để thỏa thuận nội dung hợp đồng học nghề giữa hai bên theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng là điều hoàn toàn không dễ dàng. Sự khó khăn này do cả nguyên nhân chủ quan lẫn yếu tố khách quan.
Thứ ba, hai bên hoàn thiện và giao kết hợp đồng
Các bên kết thúc giai đoạn thỏa thuận bằng việc thống nhất những điều khoản trong hợp đồng để chuẩn bị giao kết hợp đồng theo các hình thức nhất định. Các chủ thể có thể giao kết hợp đồng học nghề bằng lời nói hoặc bằng văn bản, tùy theo những trường hợp luật định. Trong những trường hợp cần thiết có thể có người làm chứng đối với việc giao kết hợp đồng bằng lời nói. Đối với hợp đồng bằng văn bản, các bên thể hiện thỏa thuận của mình vào điều khoản trong hợp đồng học nghề sau đó tiến hành ký kết. Về mặt thực tế, hành vi giao kết hợp đồng học nghề khi các bên thống nhất được ý chí là điều tất yếu. Song về mặt pháp lý, hành vi giao kết được coi là căn cứ pháp lý nhằm phát sinh quan hệ dạy và học nghề, tức là kể từ thời điểm giao kết, quyền và nghĩa vụ các bên được thiết lập và điều chỉnh theo quy định của pháp luật về dạy và học nghề.
3. Thực hiện hợp đồng học nghề:
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng học nghề. Trên thực tế, các bên thường thực hiện hợp đồng khi khóa học bắt đầu. Hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm và thái độ của cả hai bên. Chính vì vậy, ngoài việc mỗi bên thực hiện đúng và đủ các cam kết trong hợp đồng, các quy định pháp luật có liên quan thì còn phải tôn trọng lợi ích và tạo điều kiện thuận lợi cho bên kia thực hiện hợp đồng. Trong quá trình thực hiện, các bên có thể | thỏa thuận để thay đổi nội dung hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp đồng khi cần thiết. Những vấn đề cần phải lưu ý là lý do và thủ tục tiến hành phải đảm bảo không trái với các quy định chung của pháp luật.
a) Đối với người sử dụng lao động
Cụ thể, người sử dụng lao động cần có trách nhiệm trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề đối với người học nghề theo như quy định tại Điều 60 của Bộ luật lao động như sau:
Người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch hằng năm và dành kinh phí cho việc đào tạo và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động đang làm việc cho mình; đào tạo cho người lao động trước khi chuyển làm nghề khác cho mình.
Người sử dụng lao động phải báo cáo kết quả đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh trong báo cáo hằng năm về lao động.
b) Đối với người học nghề, tập nghề
Đối với những người học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động cần lưu ý tới những nội dung sau (theo Điều 61 của Bộ luật lao động):
Người sử dụng lao động tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc cho mình, thì không phải đăng ký hoạt động dạy nghề và không được thu học phí.
Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu người học nghề, tập nghề trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy cách, thì được người sử dụng lao động trả lương theo mức do hai bên thoả thuận.
Hết thời hạn học nghề, tập nghề, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động khi đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật này.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm tạo điều kiện để người lao động tham gia đánh giá kỹ năng nghề để được cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.
4. Chấm dứt hợp đồng học nghề:
Chấm dứt hợp đồng học nghề về thực chất là chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng đã giao kết. Việc chấm dứt hợp đồng học nghề thường dẫn tới chấm dứt tư cách chủ thể của hai bên trong quan hệ hợp đồng. Hợp đồng học nghề thể thể chấm dứt trong các trường hợp: hết hạn hợp đồng, khóa học kết thúc, người học nghề đi thực hiện nghĩa vụ quân sự, hai bên cùng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng hoặc một trong hai bên đơn phương chấm dứt hợp đồng... Khi hợp đồng học nghề chấm dứt, cần phải giải quyết quyền lợi và trách nhiệm của hai bên.
Quyền lợi và trách nhiệm của hai bên được giải quyết như thế nào phụ thuộc chủ yếu vào việc chấm dứt hợp đồng học nghề hợp pháp hay trái pháp luật liên quan đến trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về các điều kiện chấm dứt hợp đồng học nghề hợp pháp và cách giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng học nghề trái pháp luật. Chỉ có hai vấn đề được quy định liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng học nghề, đó là: trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc hoàn trả tiền học phí cho người học nghề và trách nhiệm bồi hoàn chi phí dạy nghề của người học nghề cho cơ sở dạy nghề trong một số trường hợp nhất định.
5. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng học nghề:
Tranh chấp về hợp đồng học nghề là tranh chấp liên quan tới quyền và lợi ích của hai bên trong quá trình thực hiện hợp đồng học nghề. Đây là một dạng của tranh chấp lao động. Sự xung đột giữa các chủ thể bao giờ cũng bắt nguồn từ những mâu thuẫn, bất đồng về quyền, lợi ích và được thể hiện ra bên ngoài. Pháp luật không có bất cứ quy định nào về hình thức biểu hiện của tranh chấp nhưng biểu hiện có thể thấy rõ nét nhất là việc một trong các chủ thể tỏ thái độ của mình về vấn đề tranh chấp với yêu cầu phải giải quyết vấn đề đó. Trong thực tiễn, các “đơn khiếu nại” hay văn bản “yêu cầu giải quyết tranh chấp” là những hình thức phổ biến ghi nhận sự tồn tại của tranh chấp này. Khi tranh chấp xảy ra đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết thích hợp tùy tính chất của từng vụ việc, giống như các tranh chấp lao động khác, tranh chấp về hợp đồng học nghề được giải quyết bằng những cách thức dưới đây:
Thứ nhất, tranh chấp về hợp đồng học nghề được giải quyết bằng con đường thương lượng. Từ lâu, trong đời sống xã hội Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới, thương lượng là cách thức giải quyết tranh chấp căn bản và mang tính truyền thống. Trong quá trình thương lượng, bằng tri thức, những kỹ năng, kỹ thuật thương lượng và những kinh nghiệm sống, những người tham gia thương lượng sẽ thể hiện quan điểm, ý kiến của mình về cách giải quyết xung đột giữa họ và các bên liên quan. Các bên sẽ bàn bạc, thảo luận các vấn đề liên quan đến vụ việc tranh chấp, đưa ra những phương án nhằm giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng học nghề. Trong quá trình này, các bên có quyền bình đẳng với nhau về mọi vấn đề. Kết quả thương lượng là sự thống nhất ý chí của hai bên và các bên có trách nhiệm thi hành.
Thứ hai, tranh chấp về hợp đồng học nghề được giải quyết theo đường hòa giải. Nếu thương lượng là quá trình các bên tranh chấp tự thỏa thuận trong khuôn khổ do các bên tự sắp đặt với điều kiện là đảm bảo tính hợp pháp thì hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có sự trợ giúp của người thứ ba. Không chỉ trợ giúp về mặt nội dung giải quyết tranh chấp, người hòa giải còn có trách nhiệm giúp các bên về các thủ tục, về tinh thần thái độ tham gia giải quyết. Tuy nhiên, người hòa giải không phải là người có quyền áp đặt ý chí, buộc các bên tranh chấp phải tuân theo quyết định về nội dung vụ tranh chấp mà các bên tranh chấp phải lựa chọn và đi đến quyết nội dung tranh chấp đó.
Do đó, về bản chất, hòa giải là quá trình các bên tranh chấp tự thương lượng với sự giúp đỡ của người thứ ba trung lập để giải quyết tranh chấp giữa họ. Theo quy định pháp luật, người hòa giải có thể là hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động do cơ quan lao động cấp huyện cử ra. Hội đồng hòa giải hoặc Hòa giải viên sẽ căn cứ vào pháp luật lao động, các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên, phân tích đánh giá vụ việc, nêu những điểm đúng sai của các bên để họ tự hòa giải với nhau hoặc đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét, thương lượng và chấp thuận.
Thứ ba, tranh chấp về hợp đồng học nghề được đưa ra xét xử tại Tòa án. Khi thương lượng không thành hoặc việc hòa giải không thống nhất được ý chí các bên thì khởi kiện tại Tòa án là hình thức cuối cùng để giải quyết những tranh chấp xung quanh việc thực hiện hợp đồng học nghề. Với tư cách là cơ quan tài phán mang quyền lực Nhà Nước đặc biệt, Tòa án giải quyết vụ việc tranh chấp theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ do luật định. Những phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước nên quyền và lợi ích của các bên theo pháp luật được bảo đảm thực hiện một cách triệt để. Đây là ưu thế lớn nhất của việc giải quyết tranh chấp hợp đồng học nghề tại Tòa án so với việc giải quyết tranh chấp ở những hình thức khác nhau. Điều này góp phần cũng cố niềm tin của các chủ thể vào pháp luật và thường được các chủ thể sử dụng khi có sự mâu thuẫn, bất đồng trong thực hiện hợp đồng học nghề.
Các tranh chấp lao động cá nhân bắt buộc phải qua hòa giải cơ sở vì Tòa án chỉ thụ lý đơn khởi kiện khi vụ tranh chấp đã được hòa giải nhưng không thành hoặc không tiến hành hòa giải được trong thời gian luật định. Đây chính là một trong những quy định làm hạn chế quyền khởi kiện tại Tòa án đối với các vụ tranh chấp về bồi thường chi phí học nghề. Theo kết quả khảo sát tình hình thực tế về tranh chấp lao động của Tòa án nhân dân Tối Cao và các ngành có liên quan cho thấy tranh chấp lao động trên thực tế xảy ra là rất nhiều, nhưng số vụ đưa đến Tòa án giải quyết là rất ít.
Bên cạnh những ưu điểm so với các phương thức khác đó là: có thể giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp, phán quyết của Tòa án có khả năng bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Thì việc giải quyết tranh chấp về học nghề tại Tòa án cũng có những nhược điểm như: thời gian giải quyết kéo dài vì phải qua nhiều cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...), chi phí tốn kém cho việc giải quyết vụ án do đương sự trả lệ phí, thù lao cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thông thường chi phí này là do đương sự có yêu cầu tự thỏa thuận với người tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (luật sư).
Những năm qua, các vụ tranh chấp về thực hiện hợp đồng học nghề xảy ra càng ngày càng có chiều hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất, đặc biệt là những vụ tranh chấp về bồi thường chi phí đào tạo; các vướng mắc trong giải quyết các tranh chấp về học nghề là bồi thường chi phí đào tạo thường xuất phát từ bên có nghĩa vụ không thực hiện các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng học nghề hoặc đã được thỏa thuận giữa hai bên;
Xuất phát từ những bất cập trên là vì các tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp về học nghề nói riêng là dàn xếp những mâu thuẫn trong quan hệ lao động, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể, phần lớn các trường hợp còn là để duy trì quan hệ lao động. Đây cũng là điểm khác biệt giữa giải quyết tranh chấp lao động với các tranh chấp khác như tranh chấp kinh tế, tranh chấp dân sự. Trong giải quyết tranh chấp lao động nói chung sự can thiệp của Tòa án mang tính quyền lực Nhà nước. Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhìn chung chỉ được tiến hành khi các biện pháp ôn hòa, mền dẻo và linh hoạt hơn ở các giai đoạn trước đó đã được sử dụng nhưng không đạt kết quả.
Theo tình hình chung trong việc giải quyết tranh chấp về thực hiện hợp đồng đào tạo nghề, chỉ khi nào mâu thuẫn, bất đồng giữa hai bên quá lớn thì vụ việc mới đem đi khởi kiện tại Tòa án. So với cách giải quyết thông qua hòa giải thì con đường khởi kiện mất nhiều thới thời gian và chi phí tốn kém hơn. Tuy nhiên, tùy theo từng loại tranh chấp, việc giải quyết đặt ra ở đây là phù hợp với đặc điểm và tính chất của quan hệ có tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và hạn chế những tác động tiêu cực đến tính bền vững của thị trường lao động cũng như nền kinh tế – xã hội nói chung.