Tự do hiệp hội là gì? Các tiêu chuẩn quốc tế về tự do hiệp hội?

Tự do hiệp hội là gì? Ý nghĩa của tự do hiệp hội? Nội hàm của tự do hiệp hội trong luật nhân quyền quốc tế? Các tiêu chuẩn quốc tế về tự do hiệp hội?

1. Tự do hiệp hội là gì?

Tự do hiệp hội (hay quyền tự do hiệp hộifreedom of association) một trong những quyền con người bản được thừa nhận bảo vệ trong pháp luật quốc tế hiến pháp của hầu hết quốc gia. Nội hàm bản của tự do hiệp hội được đề cập trong Điều 20 UDHR, theo đó, mọi người đều quyền hội họp hòa bình tự do hiệp hội; không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào.

Nguyên tắc bản đó của tự do hiệp hội đã tiếp tục được khẳng định trong nhiều văn kiện pháp quốc tế sau này

Tự do hiệp hội được ghi nhận bảo vệ trong rất nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền, cụ thể như sau

Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR 1948 Điều 20); Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR 1966 Điều 22)

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, hội văn hóa (ICESCR 1966 Điều 8)

Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc (ICERD 1965 Điều 5(ix)

Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW 1979 Điều 7)

Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC 1989 Điều 15)

Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả người lao động di trú các thành viên gia đình họ (ICRMW 1990 Điều 26

Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị đưa đi mất tích (ICPPED 2006)

Công ước về quyền của người khuyết tật (ICRPD 2006 Điều 29)

Tuyên ngôn về những người bảo vệ nhân quyền (Tuyên ngôn về quyền trách nhiệm của các nhân, các nhóm, các tổ chức trong hội nhằm thúc đẩy bảo vệ các quyền con người tự do bản đã được toàn thế giới công nhận, 1998 Điều 5)

Công ước ILO số 87 về Tự do hiệp hội và Bảo vệ quyền được tổ chức C.087, 1948 các điều 111)

Công ước ILO số 98 về Quyền tổ chức đàm phán tập thể (C.098, 1949 các điều 16)

Công ước ILO số 135 về những đại diện của người lao động (C.135, 1971)

Ngoài ra, tự do hiệp hội còn được quy định trong những văn kiện pháp quan trọng của các chế nhân quyền khu vực, dụ

Tuyên ngôn châu Mỹ về các quyền nghĩa vụ của con người (1948 Điều 22); Công ước nhân quyền châu Mỹ (ACHR 1969 Điều 16)

Hiến chương châu Phi về quyền con người quyền của các dân tộc (AfCHPR 1981 Điều 10)

Hiến chương châu Phi về quyền phúc lợi của trẻ em (ACRWC 1990 Điều 8)

Công ước nhân quyền châu Âu (ECHR 1950 Điều 11); Hiến chương hội châu Âu (ESC 1961 Phần 1 mục 5)

Hiến chương về các quyền bản của Liên minh châu Âu (CFREU 2000 Điều 12)

Công ước khung về bảo vệ các nhóm thiểu số quốc gia của Hội đồng châu Âu (CFNM 1995 Điều 7 8)

Hiến chương Rập về quyền con người (ACHR 2004 Điều 24)

2. Ý nghĩa của tự do hiệp hội:

Trong luật nhân quyền quốc tế, tự do hiệp hội ý nghĩa rất to lớn về nhiều mặt, cụ thể như sau

Thứ nhất, tự do hiệp hội là một trong những yếu tố nền tảng cho một hội dân chủ 

Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do trong việc liên kết thành các nhóm theo lựa chọn của nhân để theo đuổi các mục tiêu quyền lợi chung của họ đặc điểm cần thiết trong một hội dân chủ. Tự do hiệp hội công nhận các nguồn đa dạng về tổ chức, bao gồm các đảng phái chính trị, các NGOs, các tổ chức tôn giáo, các nghiệp đoàn các tổ chức khác. Vai trò quan trọng của các tổ chức này trong nền dân chủ đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế. Chẳng hạn, Văn kiện Copenhagen 1990 (Văn kiện của Hội nghị Copenhagen về các chiều hướng phát triển con người của Ủy ban Hợp tác An ninh châu Âu OSCE), đoạn 26, đã nêu , nền dân chủ mạnh mẽ phụ thuộc vào sự tồn tại, như một phần không thể thiếu trong đời sống quốc gia, của các giá trị thực tiễn dân chủ, cũng như sự đa dạng của các thể chế dân chủ

Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu, tình trạng dân chủ của một quốc gia thể được đánh giá theo cách thức tự do hiệp hội được bảo đảm theo luật pháp của quốc gia đó cách thức chính quyền áp dụng quyền này trên thực tế. Trong khi đó, Ủy ban Venice cũng cho rằng cách thức pháp luật quốc gia quy định về tự do hiệp hội việc áp dụng quyền này trên thực tế của các nhà chức trách phản ánh tình trạng dân chủ trong quốc gia đó

Thứ hai, tự do hiệp hội phương tiện quan trọng để thực thi các quyền con người khác 

Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền trách nhiệm của các nhân, nhóm, tổ chức trong hội trong việc thúc đẩy bảo vệ các quyền con người tự do bản đã được công nhận toàn cầu (hay còn gọi Tuyên bố về những người bảo vệ nhân quyền, 1999) khẳng định: để thúc đẩy vào bảo vệ các quyền con người tự do bản, mọi người phải tự do hiệp hội cả cấp độ quốc gia quốc tế

Đó bởi thông qua việc thành lập hoạt động của các hội, các nhân thể liên kết lại để thực hành bảo vệ các quyền bản như: quyền sống, quyền an toàn về thân thể, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại... Việc tham gia các hội nghề nghiệp cũng như các tổ chức cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, các tổ chức từ thiện góp phần thúc đẩy thực hiện các quyền kinh tế, hội, văn hóa ...

Việc tham gia thành lập hoặc gia nhập các tổ chức công đoàn giúp người lao động hội tốt hơn trong việc bảo vệ các quyền lao động bản, chẳng hạn, quyền việc làm chính đáng, quyền làm việc trong môi trường an toàn, hội bình đẳng về phúc lợi khả năng phát triển, cải thiện điều kiện làm việc, tiền lương, thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi... Tự do hiệp hội cũng giúp các nhân thực hành các quyền chính trị bản như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia vào các hoạt động công. Tự do hiệp hội đặc biệt càng ý nghĩa đối với các nhóm thiểu số về dân tộc, sắc tộc, ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người sống chung với HIV/AIDS, các nhóm LGBT, lao động nhập ...) nhằm giúp họ chống lại sự phân biệt đối xử hoặc kỳ thị, hoặc để thực hành bảo vệ các quyền của mình trong bối cảnh tiếng nói vị thế bất lợi của họ dễ bị khiến cho các quyền của họ bị xâm phạm nhiều nhất

Thứ ba, tự do hiệp hội tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau với các quyền khác 

Các quyền con người mang tính phổ quát, không thể chuyển nhượng, không thể phân chia tính liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, tự do hiệp hội mối quan hệ mật thiết với rất nhiều quyền, trong đó thể kể đến: quyền tự do biểu đạt ngôn luận, quyền tự do hội họp hòa bình, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền không bị phân biệt đối xử, quyền về tài sản, quyền biện pháp khắc phục hiệu quả, quyền được xét xử công bằng, quyền tự do đi lại quyền riêng bảo vệ dữ liệu, quyền cho các thành viên công đoàn được đình công

Trong số các quyền tự do nêu trên, tự do hiệp hội mối quan hệ mật thiết nhất với tự do hội họp tự do ngôn luận. Không thể tự do hội họp hiệp hội nếu không tự do ngôn luận. Ngược lại, tự do ngôn luận sẽ được đảm bảo một cách hiệu quả thông qua việc thực thi tự do hội họp hiệp hội. Ngoài ra, theo Ủy | ban Venice, tự do hiệp hội còn gắn kết với các quyền tự do tưởng, lương tâm, tôn giáo, ngôn luận biểu đạt. Người ta sẽ không thể bảo vệ các quyền nhân nếu công dân không thể tổ chức tập hợp dựa trên các nhu cầu lợi ích chung lên tiếng cho các vấn đề đó một cách công khai.

OSCE/ODIHR Ủy ban Venice nhấn mạnh, tự do hiệp hội phải được ghi nhận như một công cụ để đảm bảo rằng tất cả mọi công dân thể được thụ hưởng đầy đủ quyền tự do biểu đạt tự do ngôn luận của mình, bất kể họ thực hành quyền đó một cách riêng lẻ hay qua hành động tập thể. Cách tiếp cận này cũng được Tòa án nhân quyền liên châu Mỹ ủng hộ, thể hiện qua các phán quyết của tòa trong các vụ kiện liên quan đến các chính phủ quốc gia châu Mỹ, chẳng hạn vụ Garcia và các thành viên gia đình kiện Guatemala (2012)

3. Nội hàm của tự do hiệp hội trong luật nhân quyền quốc tế:

Điều 22 ICCPR tái khẳng định cụ thể hóa quy định về tự do hiệp hội trong Điều 20 UDHR, trong đó nêu : Mọi người tự do hiệp hội với những người khác, kể cả quyền lập gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy, thể thấy tự do hiệp hội bao gồm hai khía cạnh chính: (i) Thành lập các hội mới, hoặc gia nhập các hội sẵn ; (ii) tự do hoạt động, điều hành hội, bao gồm việc tìm kiếm, huy động các nguồn lực để thực hiện các mục đích đã đặt ra

3.1. Quyền thành lập và gia nhập hội:

Nội dung chủ yếu của tự do hiệp hội quyền thành lập gia nhập các hội, tức quyền tự do nói chung của nhân trong việc liên kết với các nhóm theo lựa chọn. Các quyền này được ghi nhận trong cả hai công ước nhân quyền quốc tế quan trọng nhất ICCPR (Điều 22) ICESCR (Điều 8), bao gồm cả quyền thành lập gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của bản thân với cách người lao động hoặc người sử dụng lao động. Ngoài ra, Công ước quốc tế về tự do hiệp hội bảo vệ quyền tổ chức của Tổ chức Lao động Quốc tế 1948 (Công ước ILO 87) cũng xác định mọi người lao động người sử dụng lao động đều quyền thành lập gia nhập các tổ chức do họ tự lựa chọn không phải xin phép trước

Về chủ thể của quyền, Điều 22 ICCPR ghi nhận tất cả mọi người đều được hưởng tự do hiệp hội. Điều đó nghĩa chủ thể của quyền này không bị giới hạn công dân, còn bao gồm cả người nước ngoài người không quốc tịch đang sinh sống hợp pháp một quốc gia . Cách hiểu này tương thích với quy định của Điều 2 ICCPR về không phân biệt đối xử các Nghị quyết 15/21, 21/16, 24/5 của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc.

dụ, Nghị quyết 24/5 nhắc nhở các quốc gia về nghĩa vụ tôn trọng bảo vệ các quyền của tất cả cá nhân được tụ họp ôn hòa liên kết tự do trên mạng Internet cũng như ngoài đời thực, kể cả trong các bối cảnh bầu cử, bao gồm những người quan điểm hoặc niềm tin thuộc nhóm thiểu số hoặc bất đồng đang tìm cách thực hành hoặc thúc đẩy các quyền đó. Các báo cáo của chuyên gia Liên Hợp Quốc nêu : luật pháp của các quốc gia không nên áp đặt bất cứ giới hạn cụ thể nào đối với các nhân, bao gồm trẻ em, người nước ngoài, các nhóm thiểu số về ngôn ngữ hoặc sắc tộc, các nhân đồng giới, song giới, chuyển giới, lưỡng giới, phụ nữ trong việc thụ hưởng các quyền tự do hội họp tự do hiệp hội . Ngoài ra, tự do hiệp hội cũng mở rộng cho chính bản thân các tổ chức hợp pháp, dụ, hai hội quyết định lập thành một tổ chức

Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền thành lập gia nhập hội bao hàm cả quyền thành lập gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của người lao động (Điều 22 ICCPR, Điều 8 ICESCR). Mọi người lao động người sử dụng lao động đều quyền thành lập gia nhập các tổ chức do họ tự lựa chọn không phải xin phép trước (Điều 2 Công ước ILO số 87 về tự do hiệp hội bảo vệ quyền tổ chức, 1948)

Về thủ tục thành lập hội, tự do hiệp hội bảo vệ các hội một cách công bằng, không phân biệt hội đăng không đăng . Các nhân tham gia các hội không đăng cũng được tự do tiến hành bất cứ hoạt động hợp pháp nào, bao gồm quyền tổ chức tham gia vào các cuộc tập hợp/tụ họp một cách ôn hòa, không bị coi là những hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự. 

Theo luật nhân quyền quốc tế, việc các chính phủ đòi hỏi một số loại thủ tục đăng nhất định để thành lập một hội cách pháp nhân chấp nhận được, nhưng quan trọng các nhân viên nhà nước phải hành động một cách thiện chí, nhanh chóng kịp thời không phân biệt đối xử. Về vấn đề này, Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc cho rằng, các thủ tục đăng thành lập hội phải đơn giản, không quan pháp để xem xét hành động của một quan nhà nước từ chối cho phép phiền , thậm chí miễn phí. Một số dụ tốt về thủ tục đăng lập hội thể kế đến như Bulgary (không mất phí), Nhật Bản (thủ tục nhanh chóng, nộp qua mạng Internet). Chuyên gia LHQ cũng đề xuất việc đăng không nên được xem hoạt động xin cấp phép, nói cách khác, nên áp dụng thủ tục thông báo” hơn thủ tục cho phép trướcđể thành lập một tổ chức

Với thủ tục thông báo, các hội sẽ tự động được trao cách pháp nhân khi nhà chức trách nhận được thông báo từ các sáng lập viên về việc hội đó đã được thành lập. Tuy nhiên, việc thông báo không phải điều kiện bắt buộc cho sự tồn tại của một hội . Nói cách khác, những hội không đăng hoặc thông báo thì vẫn quyền hoạt động, chỉ điều không cách pháp nhân. Việc thông báo để các quan thống thông tin về hội. Hệ thống thông báo này được áp dụng nhiều quốc gia như Djibouti, Maroc, Bồ Đào Nha, Senegal, Thụy , Uruguay... Ngoài ra, khi luật mới được thông qua thì không nên yêu cầu các hội đã đăng trước đó phải đăng lại

Các thủ tục đăng ký hoặc thông báo đều cần phải thực hiện nhanh chóng. Pháp luật cần đặt ra giới hạn thời gian ngắn cho việc phúc đáp hồ đăng , buộc các quan phụ trách việc đăng phải hành động, không thể trì hoãn việc đăng hội thời hạn hoặc từ chối không nêu do. Trong thời gian này, các hội được giả định sẽ được hoạt động hợp pháp trừ phi chứng minh điều ngược lại. Việc không đưa ra phúc đáp trong một giới hạn thời gian ngắn đã được quy định đồng nghĩa với giả định rằng hội đang hoạt động hợp pháp . Quyết định từ chối việc đăng cần phải nêu do thông báo bằng văn bản. Các hội bị từ chốiđơn thể khiếu nại, khiếu kiện trước một tòa án độc lập, không thiên vị. Ủy ban về tự do hiệp hội của ILO cho rằng việc không thể đưa ra trước thành lập một công đoàn vi phạm các nguyên tắc tự do hiệp hội .

Theo Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, các quốc gia nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ đầy đủ quyền hiệp hội cả trong đời sống thực cũng như trên mạng trực tuyến (Nghị quyết 24/5). Mạng Internet, đặc biệt các trang mạng hội, các công nghệ thông tin truyền thông khác những công cụ quan trọng hỗ trợ tự do hiệp hội trong đời sống thực, mọi người đều quyền liên kết trong các không gian ảo, tập hợp trong môi trường mạng trực tuyến để bày tỏ ý kiến của mình (Nghị quyết 21/16). Tất cả các quốc gia cần đảm bảo việc tiếp cận Internet được duy trì mọi lúc, kể cả khi bất ổn chính trị. Mọi ý định chặn nội dung trực tuyến cần phải được tiến hành bởi quan pháp thẩm quyền, hoặc một quan độc lập với bất cứ ảnh hưởng chính trị, thương mại nào hoặc các ảnh hưởng không thích đáng nào khác

Đồng thời với việc thành lập, nhân quyền gia nhập rút lui khỏi các hội. Tương tự, các hội quyền ngừng hoạt động tự giải tán. Tuy nhiên, việc quan nhà nước đình chỉ hoạt động hoặc giải tán hội cần phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của luật

3.2. Quyền hoạt động tự do và được bảo vệ khỏi sự can thiệp phi lý:

Quyền hoạt động tự do của các hội tương ứng với nghĩa vụ của các nhà nước trong việc tôn trọng, thực thi bảo vệ tự do hiệp hội. Luật nhân quyền quốc tế đòi hỏi các nhà nước nghĩa vụ thực thi các biện pháp chủ động thụ động nhằm đảm bảo các quyền tự do căn bản, trong đó tự do hiệp hội

Theo Điều 17 ICCPR, các nhà nước nghĩa vụ kiềm chế, không can thiệp vào công việc nội bộ của hội tôn trọng quyền riêng của hội. Cụ thể, các nhà chức trách không được đặt điều kiện cho các quyết định những hoạt động của hội; đảo ngược kết quả bầu cử thành viên ban lãnh đạo; đặt điều kiện trong ban lãnh đạo của hội phải sự hiện diện của đại diện chính phủ; yêu cầu các hội nộp báo cáo (kiểm duyệt) trước khi xuất bản; hoặc yêu cầu nộp kế hoạch hoạt động để thông qua trước. Các quan độc lập quyền xem xét các báo cáo của hội như là một chế đảm bảo sự minh bạch trách nhiệm giải trình, nhưng một thủ tục như vậy không được tùy tiện phải tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử quyền riêng

Luật nhân quyền quốc tế cũng ấn định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc thúc đẩy tự do hiệp hội thông qua việc tiến hành các biện pháp tích cực để thiết lập duy trì môi trường thuận lợi cho hoạt động của các hội. Thành viên của hội cần phải được thực hành tự do hiệp hội của họ không sợ rằng họ có thể bị đe dọa, bị bạo lực, bao gồm việc quấy rối, xử tử vắn tắt hoặc tùy tiện, bắt giữ hoặc giam giữ tùy tiện, tra tấn, các chiến dịch truyền thông bôi nhọ, hoặc cấm đi lại. Các quốc gia cũng nghĩa vụ không cản trở trái pháp luật việc thực hành tự do hiệp hội. Thành viên các hội cần phải được tự do xác định điều lệ, cấu tổ chức, hoạt động của hội đưa ra các quyết định không sự can thiệp của nhà nước. Bên cạnh những quyền khác, các hội cần được hưởng quyền thể hiện chính kiến, truyền thông tin, lôi kéo sự tham gia của công chúng, vận động các chính phủ các quan quốc tế về nhân quyền

Nghĩa vụ nêu trên đòi hỏi các nhà nước phải tạo điều kiện cho các hội tiếp cận các nguồn lực để duy trì hoạt động phát triển. Khả năng các hội thể tìm kiếm, tiếp cận sử dụng các nguồn lực trong nước, ngoài nước quốc tế một phần quan trọng không thể tách rời của tự do hiệp hội . Thuật ngữ các nguồn lựcdùng để chỉ các nguồn tài chính được chuyển giao, các đóng góp phi tài chính, các nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực, vv... . Việc tiếp nhận nguồn tài chính trong ngoài nước không nên bị yêu cầu phải được nhà chức trách cấp phép. Các hội có đăng không đăng đều cần quyền tự do tìm kiếm đảm bảo nguồn tài chính các nguồn lực từ các chủ thể trong nước, ngoài nước quốc tế

3.3. Giới hạn chính đáng đối với tự do hiệp hội:

Theo luật nhân quyền quốc tế, tự do hiệp hội không phải một quyền tuyệt đối, tương tự như đối với một số quyền chính trị khác như tự do ngôn luận, tự do hội họp hòa bình. Các quốc gia thể đưa ra những hạn chế trong việc thực hiện quyền này dựa trên những quy định của luật quốc tế. Điều 29 UDHR Điều 22 ICCPR quy định việc thực hiện tự do hiệp hội không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định sự hạn chế đó cần thiết trong một hội dân chủ, lợi ích an ninh quốc gia, an toàn trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng, hay các quyền tự do của người khác

Mặc tự do hiệp hội thuộc về mọi nhân, không phân biệt tuổi tác, quốc tịch, nơi trú..., ICCPR cho phép giới hạn quyền này đối với những người làm việc trong các lực lượng trang cảnh sát. Theo đó, các quốc gia thể đặt ra những hạn chế hợp pháp về quyền này đối với những người thuộc các lực lượng trang cảnh sát (Khoản 2 Điều 22 ICCPR).

do của những hạn chế đó bởi các lực lượng này đảm nhiệm những nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng an ninh, duy trì trật tự hội, do đó họ cần sự trung lập, không nên bị lôi cuốn vào các xung đột mang tính phe nhóm hoặc bị chi phối bởi các quan điểm chính trị do tham gia vào các hội, bao gồm cả các đảng chính trị (theo quy định luật nhân quyền quốc tế); ngoài ra, quân nhân tại ngũ tham gia các hội nhóm nghề nghiệp không tương hợp với các nguyên tắc về kỷ luật quân đội (đây là do mà một số quốc gia hạn chế cả quyền bầu cử, ứng cử của thành viên lực lượng trang). Sự hạn chế này được coi phỏng theo khoản 2 Điều 11 Công ước Nhân quyền châu Âu 1950

Nghị quyết 15/21 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc tái xác định nội dung của điều 21 22 ICCPR về việc quyền tự do hội họp hòa bình tự do hiệp hội không phải các quyền tuyệt đối, đồng thời khẳng định các quyền này thể phải chịu những giới hạn được luật quy định cần thiết trong một hội dân chủ lợi ích của an ninh quốc gia hoặc an toàn, trật tự công cộng, bảo vệ sức khỏe đạo đức công cộng, hoặc bảo vệ các quyền tự do của người khác.” 

Để hạn chế sự lạm dụng tùy tiện của các quốc gia trong việc viện dẫn những do nhằm hạn chế tự do hiệp hội, Liên Hợp Quốc các tổ chức bảo vệ nhân quyền đã thông qua một số văn kiện để xác định nội hàm của các khái niệm được coi do để đặt ra giới hạn chính đáng đối với tự do hiệp hội. Cụ thể, Đoạn 29 của Các nguyên tắc Siracusa về Giới hạn đình chỉ các điều khoản trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị 1984 xác định: chỉ thể viện dẫn do an ninh quốc giađể giới hạn một số quyền khi điều đó cần thiết để bảo vệ sự tồn tại của quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của quốc gia trước việc sử dụng lực hoặc đe dọa sử dụng lực từ bên ngoài.

Nguyên tắc 2 của Các nguyên tắc Johannesburg về An ninh quốc gia, tự do biểu đạt tiếp cận thông tin 1995 khẳng định: hạn chế được biện minh với do an ninh quốc gia không chính đáng nếu mục đích thực chất hoặc hiệu quả thể thấy được để bảo vệ lợi ích không liên quan đến an ninh quốc gia, bao gồm, dụ, để bảo vệ một chính phủ khỏi xấu hổ hay khỏi phải phô bày những hành động sai trái.

Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp quốc về tự do hội họp tự do hiệp hội (A/HRC/23/39) tháng 5/2014 về quyền của các tổ chức hội trong việc tìm kiếm, tiếp nhận sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực tài chính cho thấy các chính phủ sử dụng kênh tài chính để làm rào cản hạn chế tự do hiệp hội của các tổ chức này.

Báo cáo ghi nhận vai trò thành tựu to lớn của các tổ chức hội trong việc bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, trong đó tự do hội họp và hiệp hội; đồng thời kêu gọi các chính phủ biện pháp tích cực để tạo điều kiện cho sự phát triển của các tổ chức hội. Xu hướng tăng cường kiểm duyệt, siết chặt hoạt động của các tổ chức hội tất cả các châu lục cảm nhận chung của cộng đồng quốc tế. Đây mối đe dọa hiện hữu đối với việc thực thi bảo đảm các quyền về tự do hiệp hội hội họp hòa bình của người dân

Quy định về việc chống áp dụng các hạn chế quyền một cách tùy tiện còn thể hiện ở chỗ các chính phủ không thể biện minh bằng việc lấy do những mục đích hợp pháp khác. Chẳng hạn, theo luật nhân quyền quốc tế, việc chống tội phạm bản thân việc chống tội phạm không phải do hợp pháp để hạn chế tự do hiệp hội. dụ, việc chống gian lận, biển thủ công quỹ, rửa tiền các tội phạm khác mối quan tâm hợp pháp của nhà nước, những việc đơn thuần theo đuổi mối quan tâm hợp pháp không phải do phù hợp để hạn chế tự do hiệp hội. Các giới hạn áp đặt với quyền này phải được quy định trong luật chứng minh được sự cần thiếttrong một hội dân chủ. Các giới hạn phải mức độ tương xứng đối với lợi ích cần được bảo vệ (Điều 12 ICCPR) cần phải cách thức can thiệp tối thiểu để đạt được mục tiêu mong muốn bảo vệ lợi ích đó

Theo luật nhân quyền quốc tế, các nhà nước không được thiết lập các giới hạn đặc biệt cho tự do hiệp hội trong giai đoạn bầu cử, bởi đây thời điểm đặc biệt trong đời sống chính trị quốc gia, gắn liền với việc thực thi (để khẳng định, thậm chí tăng cường, các nguyên tắc dân chủ. Trong thời gian diễn ra bầu cử, các điều kiện đặt ra với việc hạn chế quyền cần quy định chặt chẽ hơn, mức độ cao hơn so với bối cảnh bình thường . Các cuộc bầu cử đích thực thể không đạt được nếu tự do hiệp hội bị hạn chế. Tất cả các hội đều quyền tự do tham gia các hoạt động liên quan tới tiến trình bầu cử, họ ủng hộ chính phủ hay không

Về việc đình chỉ hoạt động của hội, các hội không thể bị đình chỉ hoặc giải thể chỉ không hoàn thành nghĩa vụ báo cáo hoặc một vi phạm pháp luật nhỏ. Nếu không hoàn thành nghĩa vụ báo cáo thì vi phạm nhỏ đó không thể dẫn đến việc đóng cửa hoặc truy tố hình sự đại diện của hội; thay vào đó, các hội nên được yêu cầu nhanh chóng khắc phục thiếu sót trong hoạt động. Việc đình chỉ hoặc buộc giải thể chỉ nên thực hiện hội những vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc gia, tạo ra mối nguy hiểm ràng, sắp xảy ra, với những lợi ích được bảo vệ phù hợp với quy định của luật nhân quyền quốc tế. Những biện pháp quyết liệt như vậy cần sự phù hợp tương xứng với mục đích hợp pháp, chỉ được sử dụng khi các biện pháp nhẹ nhàng hơn sẽ không hiệu quả , chỉ thể được thực hiện bởi các tòa án độc lập không thiên vị

cấp độ khu vực, trong phán quyết ngày 13/02/2003 về vĐảng Phồn vinh Refah Partisi những người khác kiện Thổ Nhĩ Kỳ, Tòa án Nhân quyền châu Âu khẳng định: khả năng hạn chế tự do hiệp hội từ phía nhà chức trách chỉ hãn hữu. Theo đó, việc từ chối đăng hay giải tán một đảng chính trị ngoại lệ của nguyên tắc tự do hiệp hội, chỉ được áp dụng một cách đích xác do kích động bạo lực, hằn thù, hay phủ nhận các nguyên tắc căn bản của hội dân chủ.

Chẳng hạn, Tòa án nhân quyền châu Âu cho rằng từ chối việc đăng một đảng chính trị chỉ dựa duy nhất vào chương trình hành động của đảng này bị xem bất cân xứng(Phán quyết ngày 09/4/2002 trong vụ Yasas, Karatas, Aksoy Đảng Lao động của Nhân dân kiện Thổ Nhĩ K); việc giải tán một đảng phái ủng hộ khủng bố đã được chấp nhận với do giữ gìn bảo vệ các nguyên tắc của một hội dân chủ (Phán quyết ngày 30/6/2009 trong vHerri Batasuna Batasuna kiện Tây Ban Nha)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com