Tự do liên kết và thương lượng tập thể theo Hiệp định CPTPP và EVFTA

Tiêu chuẩn quốc tế về tự do liên kết và thương lượng tập thể? Pháp luật lao động Việt Nam về tự do liên kết và thương lượng tập thể? Tự do liên kết và thương lượng tập thể theo Hiệp định CPTPP và EVFTA?

1. Tiêu chuẩn quốc tế về tự do liên kết và thương lượng tập thể:

Tiêu chuẩn tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động được thể hiện trong chùm Công ước số 87 Công ước số 98 của ILO. thể xem đây 02 Công ước tạo ra nhóm quyền cốt lõi nhất của hệ thống các tiêu chuẩn lao động quốc tế, đó : Quyền tự do liên kết thương lượng tập thể.

i) Tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do liên kết

Tự do liên kết hay quyền tự do liên kết một loại quyền đặc biệt của người lao động; phát sinh, gắn liền với quan hệ lao động nhằm cân bằng vị thế của tập thể lao động người sử dụng lao động. Ngoài ra, tự do liên kết tạo điều kiện cho người lao động bảo vệ tốt hơn không chỉ quyền lợi kinh tế cả các quyền tự do dân sự, quyền được sống, được bảo đảm an toàn các quyền tự do nhân khác. Bên cạnh đó, nguyên tắc tự do liên kết còn cùng quan trọng bởi giúp thực hiện tất cả các nguyên tắc quyền bản khác tại nơi làm việc. 

Quyền tự do liên kết còn bảo đảm quyền tự do thành lập, hoạt động của các tổ chức của người lao động chống lại bất kỳ hành vi nào hạn chế những quyền này. Điều này đã được ghi nhận trong các Công ước của ILO được dẫn chiếu lần lượt bởi 02 Hiệp định CPTPP EVFTA như một quyền năng bất khả xâm phạm

* Công ước số 87 khẳng định: Người lao động không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, quyền được thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình không phải xin phép trước, với một điều kiện duy nhất phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó(Điều 2) . 

Khi thực hiện quyền tự do liên kết, các tổ chức của người lao động được phép lập ra điều lệ, xây dựng quy chế hoạt động cấu tổ chức; thành lập gia nhập các liên đoàn, tổng liên đoàn mọi tổ chức, liên đoàn hoặc tổng liên đoàn đó đều quyền gia nhập các tổ chức quốc tế của người lao động; cũng như không phải chịu sự can thiệp hay không thể bị bất cứ một quan hành chính nào yêu cầu giải tán hoặc đình chỉ

Đối với doanh nghiệp, Công ước yêu cầu phải thực hiện các biện pháp để thể hiện sự tôn trọng quyền tự do liên kết của người lao động bằng cách không can thiệp vào quyết định lập hội; tôn trọng quyền tự do lập hội của người lao động theo pháp luật quốc gia không sợ bị đe dọa hoặc trả đũa; không phân biệt đối xử với tổ chức của người lao động; không can thiệp vào các hoạt động của tổ chức đại diện người lao động trong khi họ đang thực hiện chức năng của mình

Mặt khác, đối với tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do liên kết, ILO không đặt ra vùng cấm nhưng không nghĩa được hiểu tự do độ. Tại Điều 11 của Công ước số 87 quy định khi thực hiện những quyền được quy định trong Công ước này, người lao động phải tôn trọng pháp luật quốc gia; tự do liên kết nhưng phải đặt trong khuôn khổ pháp luật quốc gia

* Tiếp nối Công ước số 87, Công ước số 98 tiếp tục đưa ra những khẳng định để bảo toàn quyền tự do liên kết của người lao động. Thông qua những khẳng định trong Công ước 98, để thấy rằng ILO mong muốn tự do lập hội là một quyền sống. giá trị áp dụng thực tế ý nghĩa đối với người lao động

Tôn chỉ chủ đạo của Công ước số 98 người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước những hành vi phân biệt đối xử trong việc làm các tổ chức của người lao động phải được bảo vệ chống lại mọi hành vi can thiệp trong quá trình thành lập hoạt động. Sự bảo vệ thích đáng Công ước 98 ghi nhận nhằm chống lại các hành vi ép buộc người lao động không được gia nhập hay phải từ bỏ cách thành viên đối với tổ chức của người lao động hoặc sa thải hay gây tổn hại cho người lao động do lập hội. Hành vi được xác định can thiệp vào quyền tự do liên kết những hành vi chi phối hoặc hỗ trợ về mặt tài chính đối với tổ chức của người lao động, với ý đồ đặt các tổ chức đó dưới sự kiểm soát của người sử dụng lao động

Nhìn chung, trong quan hệ lao động, người lao động luôn bên yếu thế. Việc xung đột quyền lợi ích với người sử dụng lao động thường thúc đẩy người lao động không tồn tại như một thể riêng biệt độc lập mà có xu hướng liên kết thành một tập thể những người cùng tham gia lao động với cùng điều kiện, chế độ tiêu chuẩn lao động nhằm tập trung sức mạnh để cải thiện vị thế của mình trong doanh nghiệp. Tập thể được liên kết ấy chính tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động. Đây nhu cầu tất yếu quyền bản của con người, do đó không thể không được phép bất cứ một giới hạn hay một sự can thiệp bất hợp pháp nào vào việc thành lập các tổ chức đại diện người lao động. Theo quan điểm của ILO thì quyền tự do liên kết còn việc người lao động không chỉ được quyền thành lập một nhiều tổ chức đại diện, đó quyền của người lao động, nên việc họ thành lập một tổ chức đại diện cho mình không cần thiết phải được sự đồng ý cho phép hay phê duyệt bởi người sử dụng lao động hay bất cứ quan chức năng nào .

ii) Tiêu chuẩn lao động quốc tế về thương lượng tập thể: 

Công ước số 154 của ILO về thương lượng tập thể đã định nghĩa: Thương lượng tập thể tất cả các cuộc đàm phán diễn ra giữa một bên một người sử dụng lao động, một nhóm người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động với một bên một hay nhiều tổ chức của người lao động, nhằm xác lập các điều kiện lao động, điều chỉnh mối quan hệ giữa người sử dụng lao động người lao động hoặc với tổ chức của người lao động . Từ định nghĩa này cho thấy thương lượng tập thể được tiến hành bởi 02 bên 03 chủ thể : Bên sử dụng lao động (gồm: một hay nhiều người sử dụng lao động một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động) Bên lao động (gồm một hay nhiều tổ chức của người lao động)

Như vậy, thương lượng tập thể đóng vai trò cách thức để ổn định quan hệ lao động. Nếu thương lượng tập thể được sử dụng như một biện pháp để xác lập những thỏa thuận chung giữa người lao động người sử dụng lao động về điều kiện lao động, việc làm, tiền lương... thì kết quả của thương lượng tập thể chính thỏa ước tập thể. Còn nếu thương lượng tập thể được sử dụng như một phương thức để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể thì kết quả của việc thương lượng thành công thỏa thuận chung giữa 02 bên về giải quyết nội dung tranh chấp. Bởi vai trò quan trọng này của thương lượng tập thể nên ILO khuyến nghị các nước thành viên cần tiếp cận thương lượng tập thể như một quá trình trao đổi, thảo luận thống nhất ý chí giữa người lao động người sử dụng lao động để tìm ra các vấn đề chung liên quan đến lợi ích của đôi bên

Đối với người lao động nói riêng, trong quan hệ lao động, thương lượng tập thể thể giúp cân bằng vị thế của người lao động với người sử dụng lao động. Thực tế, người lao động thường ở vào vị trí thế yếu so với người sử dụng lao động. Do đó, thương lượng tập thể thể phòng ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ những mâu thuẫn, tranh chấp để bảo vệ lợi ích chính đáng cho người lao động

Như vậy, thực chất thương lượng tập thể là một cuộc đàm phán song phương công khai bình đẳng giữa 02 bên: lao động sử dụng lao động để tìm ra tiếng nói chung giữa những điều khác biệt lợi ích chính đáng mỗi bên được hưởng

Công ước số 98 của ILO Công ước bản quy định quyền thương lượng tập tập thể. thể nói, Công ước số 98 sự bổ trợ hoàn hảo cho Công ước số 87 của ILO. Bởi lẽ, quyền của người lao động được tự do thương lượng với người sử dụng lao động một cấu phần quan trọng thúc đẩy thành công cho quyền tự do liên kết

Để thương lượng tập thể kết quả thì cần phải tuân thủ nguyên tắc bản Công ước số 98 đã khẳng định đó thương lượng tự nguyện thiện chí. Bên cạnh đó, để đạt được hình thái thương lượng tập thể thực chất thì cần phải bảo vệ người lao động cán bộ tổ chức đại diện của người lao động không bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc; đồng thời phải bảo đảm cho các tổ chức đại diện của người lao động không bị can thiệp hoặc chi phối bởi người sử dụng lao động

Như vậy, tính cốt lõi để có thể thực thi tiêu chuẩn tự do liên kết thương lượng tập thể chùm Công ước của ILO yêu cầu người lao động được quyền thành lập hay tham gia bất kỳ tổ chức đại diện do họ lựa chọn tổ chức đại diện đó phải độc lập, không chịu sự can thiệp của người sử dụng lao động. Quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể mối quan hệ tương hỗ. Quyền tự do liên kết hỗ trợ, cải thiện quá trình thương lượng tập thể ngược lại, thương lượng tập thể thúc đẩy thành công cho quyền tự do liên kết; cho phép người lao động được hưởng lợi ích công bằng hơn thông qua các thỏa thuận đạt được với người sử dụng lao động

2. Pháp luật lao động Việt Nam về tự do liên kết và thương lượng tập thể:

Trước khi ban hành Bộ luật lao động vào ngày 20/11/2019 thì ngày 14/6/2017, Quốc hội đã phê chuẩn gia nhập Công ước số 98. Đối với Công ước số 87, Việt Nam dự kiến phê chuẩn gia nhập vào năm 2023. Tuy nhiên, tại Điều 2 Tuyên bố 1998 của ILO đã khẳng định rằng, các quốc gia thành viên ILO, đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn 08 công ước bản đều nghĩa vụ phải tôn trọng, thúc đẩy thực hiện 08 công ước này một cách thiện chí . Đây sự khác biệt bản về mặt nghĩa vụ tuân thủ giữa 08 công ước bản với các công ước khác của ILO

Bên cạnh đó, các Hiệp định CPTPP Hiệp định EVFTA đều các quy định viện dẫn tiêu chuẩn lao động của ILO. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải sửa đổi pháp luật cho phù hợp để bảo đảm thực hiện cam kết lao động quốc tế, nhằm được hưởng lợi ích thương mại từ các nước thành viên khác của 02 Hiệp định. Chính điều này, nên sau khi sửa đổi, các tiêu chuẩn của chùm Công ước số 98 số 87 về bản đã được nội luật hóa trong Bộ luật lao động năm 2019.

i) Quy định về quyền tự do liên kết

Những thay đổi trong Bộ luật lao động năm 2019 đã cho thấy rằng pháp luật lao động Việt Nam thừa nhận quyền tự do liên kết của người lao động

* Ngay tại Điều 1 về phạm vi điều chỉnh, Bộ luật lao động năm 2019 đã sử dụng thuật ngữ tổ chức đại diện người lao động tại sởthay cho thuật ngữ tổ chức đại diện tập thể lao độngtrong Bộ luật lao động năm 2012 [15, 14]. Điều này cho thấy sự cải cách tiến bộ của Bộ luật lao động năm 2019 để tiệm cận với tiêu chuẩn lao động bản của ILO. Về mặt từ ngữ, Bộ luật lao động năm 2019 đã sử dụng thuật ngữ tương đối giống với thuật ngữ trong chùm Công ước của ILO. Về mặt ý nghĩa, Bộ luật năm 2019 đã đề cao nhân người lao động thay đặt thể người lao động trong tập thể lao độngnhư Bộ luật năm 2012. Nếu thể bị đặt trong tập thể thì không thể đạt tới sự tự do cao nhất chỉ khi đề cao cái tôi thì mới tự do nhân tự do hoàn hảo nhất. Tác giả cho rằng đây mới chính giá trị tự do trong quyền tự do liên kết của người lao động mà Chùm Công ước của ILO muốn hướng tới

* Bộ luật lao động năm 2019 quy định: Tổ chức đại diện người lao động tại sở tổ chức được thành lập trên sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại sở bao gồm công đoàn sở tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp . Với quy định này, pháp luật lao động hiện nay đã tiệm cận với tiêu chuẩn của ILO. Theo đó, tổ chức đại diện người lao động tổ chức do người lao động lựa chọn tham gia, đó thể công đoàn hoặc tổ chức của người lao động doanh nghiệp. Điều này thay đổi hoàn toàn so với Bộ luật lao động năm 2012 khi ấn định tổ chức đại diện người lao động chỉ công đoàn . Việc ấn định duy nhất công đoàn tổ chức đại diện người lao động đã triệt tiêu đi quyền tự do liên kết. Bộ luật lao động năm 2019 đã bảo hộ quyền tự do của người lao động thông qua việc tăng thêm lựa chọn tổ chức đại diện. Bộ luật lao động năm 2019 cũng khẳng định các tổ chức đại diện đó bình đẳng về quyền nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ người lao động

* Bộ luật lao động năm 2019 đã đưa ra các quy định bảo vệ người lao động cán bộ tổ chức đại diện người lao động như đúng tinh thần của các Công ước của ILO. Theo đó, Bộ luật lao động nghiêm cấm người sử dụng lao động phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động hay can thiệp tự do ý chí lập hội của người lao động. Ngoài ra, Bộ luật lao động cũng không cho phép người sử dụng lao động sa thải, kỷ luật, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, không tiếp tục giao kết hợp đồng lao động, chuyển người lao động làm công việc khác do lập hội hoặc cản trở, gây khó khăn liên quan đến công việc nhằm làm suy yếu hoạt động của tổ chức đại diện người lao động

* Quyền tự do liên kết được pháp luật Việt Nam bảo hộ một cách tuyệt đối. Các hành vi xâm phạm quyền này của người lao động đã được hình sự hóa thành tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015 thành tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân. Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người nào dùng lực, đe dọa dùng lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác lập hội, hội họp hợp pháp, đã bị xử kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt từ 03 tháng đến 03 năm tùy theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi. Người phạm tội còn thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm

* Tương tự như các quy định của Công ước số 87, Bộ luật lao động năm 2019 đã ghi nhận tổ chức đại diện người lao động độc lập không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động (khoản 2 Điều 175)

Tuy nhiên, hiện nay, tính độc lập của tổ chức công đoàn một trong hai loại tổ chức đại diện người lao động nước ta vẫn đang còn nhiều điều để bàn. Theo tinh thần trong chùm Công ước bản của ILO cam kết trong các Hiệp định CPTPP EVFTA cũng như Bộ luật lao động năm 2019 thì tổ chức đại người người lao động phải độc lập, tức phải bảo đảm độc lập về cấu tổ chức, độc lập về phương thức hoạt động độc lập về tài chính

Về cấu phương thức hoạt động, tổ chức công đoàn Việt Nam điều lệ riêng. Còn về nội dung tài chính, theo quy định tại Luật Công đoàn năm 2012 Nghị định số 191/2013/CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết về tài chính công đoàn thì tài chính công đoàn gồm 04 nguồn thu: Thứ nhất, nguồn thu đoàn phí công đoàn do đoàn viên công đoàn đóng. Thứ hai, nguồn thu khác từ hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động kinh tế của công đoàn; từ đề án, dự án do Nhà nước giao; từ viện trợ, tài trợ của tổ chức, nhân trong nước nước ngoài. Thứ ba, nguồn thu ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ. thứ , nguồn thu kinh phí công đoàn. Nguồn này do quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm hội cho người lao động. Như vậy, tài chính của tổ chức công đoàn không hoàn toàn độc lập đang sự can thiệp, lệ thuộc từ phía người sử dụng lao động. Đây thể xem một điểm chưa tương thích của pháp luật lao động Việt Nam so với tiêu chuẩn lao động quốc tế bản

Tuy nhiên, theo cam kết trong Hiệp định CPTPP, riêng Việt Nam được cho phép thời gian chuẩn bị 05 năm kể từ ngày Hiệp định hiệu lực để hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện tiêu chuẩn tự do liên kết

* Bên cạnh việc quy định về quyền của tổ chức đại diện người lao động chính sách của Nhà nước bảo đảm các quyền này thì Bộ luật lao động năm 2019 cũng đã đưa ra các điều kiện yêu cầu đối với tổ chức đại diện người lao động như: Chỉ được thành lập hoạt động hợp pháp sau khi được cấp đăng ; bảo đảm nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật điều lệ; tự nguyện, tự quản, dân chủ, minh bạch. Các điều kiện yêu cầu này nhìn chung phù hợp với quy định trong các Công ước số 98 của ILO.

ii) Quy định về quyền thương lượng tập thể: 

Trước khi Bộ luật lao động năm 2019 ra đời, thể nói, thương lượng tập thể phụ thuộc rất nhiều vào kết quả sản xuất, kinh doanh thiện ý của người sử dụng lao động. Tổ chức công đoàn thì lệ thuộc người sử dụng lao động về tài chính dẫn đến công đoàn như tổ chức trung gian giữa người lao động người sử dụng lao động. Quy trình của thương lượng tập thể sẽ diễn ra theo các bước

Bước 1: Công đoàn tập hợp ý kiến của người lao động về các nội dung đưa vào thỏa ước tập thể

Bước 2: Công đoàn tự xem xét nội dung thể không thể thương lượng, sau đó tự quyết định đưa ra thương lượng những nội dung khả thi thông tin lại với người lao động về những nội dung không khả thi

Bước 3: Công đoàn thương lượng với người sử dụng lao động. Nếu người sử dụng lao động không thiện chí, thương lượng rơi vào bế tắc

Nguyên nhân của tình trạng thương lượng tập thể này xuất phát chủ yếu từ những hạn chế trong việc thực hiện quyền tự do liên kết của người lao động theo Bộ luật lao động như đã phân tích phần trên

Cho đến nay, thể xem Bộ luật lao động năm 2019 một cuộc cải cách về pháp luật lao động. Bộ luật năm 2019 đã chuẩn hóa các quy định để phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế bản. Trong đó, những hạn chế của quyền thương lượng tập thể theo Bộ luật lao động năm 2012 đã bản được khắc phục

* Đầu tiên, Bộ luật lao động năm 2019 khẳng định một cách ràng nhất định nghĩa về thương lượng tập thể. Nếu Bộ luật lao động năm 2012 chỉ quy định mục đích của thương lượng tập thể  thì Bộ luật lao động năm 2019 đã đưa ra được một định nghĩa về thương lượng tập thể việc đàm phán, thỏa thuận giữa một bên một hoặc nhiều tổ chức đại diện người lao động với một bên một hoặc nhiều người sử dụng lao động hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động nhằm xác lập điều kiện lao động, quy định về mối quan hệ giữa các bên xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa ổn định (Điều 65)

Với định nghĩa này, thương lượng tập thể trong khái niệm của Bộ luật lao động năm 2019 về bản đã chuẩn hóa theo Công ước số 154 của ILO

* Thứ hai, Bộ luật lao động năm 2019 đã thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận về quan điểm lập pháp so với Bộ luật năm 2012 trong nội dung thương lượng tập thể. Đồng thời, cách tiếp cận của Bộ luật mới được cho tương thích với tinh thần của Công ước số 98. Đối với chính sách của Nhà nước về lao động, Bộ luật lao động năm 2019 quy định thúc đẩy người lao động người sử dụng lao động thương lượng tập thể. Trong khi, Bộ luật lao động năm 2012 quy định hướng dẫn người lao động người sử dụng lao động đối thoại, thương lượng tập thể

Phải thấy rằng, thương lượng tập thể chính người lao động đang thực hiện quyền của mình (Điều này được Bộ luật lao động năm 2019 khẳng định tại điểm c khoản 1 Điều 5). quyền này phải được Nhà nước thông qua các chế và pháp luật để bảo hộ, tạo điều kiện thúc đẩy người lao động thực hiện chứ không phải hướng dẫn người lao động thực hiện quyền của mình. Việc hướng dẫn người lao động thực hiện quyền hình chung đã tạo ra một khung người lao động phải thực hiện quyền trong khung đó. Điều này đồng nghĩa người lao động thực hiện quyền của mình nhưng không phải tự do thực hiện cũng không được chủ động thực hiện. 

* Thứ ba, Bộ luật lao động năm 2019 quy định hoàn toàn tương thích với Công ước số 154 của ILO về chủ thể tham gia thương lượng tập thể (Thương lượng tập thể cũng được thực hiện bởi 02 bên 03 chủ thể như Công ước số 154)

* Thứ , so với Bộ luật lao động năm 2012 chỉ quy định duy nhất công đoàn tổ chức đại diện của người lao động, thì Bộ luật lao động năm 2019 đã quy định bổ sung tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Điều này hoàn toàn tương thích với tiêu chuẩn lao động của ILO rằng người lao động được quyền thành lập hay tham gia bất kỳ tổ chức đại diện do họ lựa chọn

* Thứ năm, Bộ luật lao động năm 2019 bảo đảm tương thích với nguyên tắc thương lượng tập thể theo Công ước của ILO, đó : Thương lượng tập thể được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, hợp tác, thiện chí, bình đẳng, công khai minh bạch

* Mặt khác, Bộ luật lao động năm 2019 còn nhiều bổ sung khác liên quan đến thương lượng tập thể nhằm phù hợp với tình hình thực tế của đất nước để bảo đảm thực hiện được các cam kết lao động trong Hiệp định CPTPP EVFTA. Bộ luật lao động năm 2019 bổ sung các nội dung của thương lượng tập thể về điều kiện, phương tiện hoạt động của tổ chức đại diện người lao động, mối quan hệ giữa người sử dụng lao động tổ chức đại diện người lao động; về chế, phương thức phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao động; về bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ thai sản, nghỉ hằng năm; phòng, chống bạo lực quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bên cạnh đó, Bộ luật lao động năm 2019 bổ sung về thời gian thương lượng tập thể không được quá 90 ngày kể từ ngày bắt đầu thương lượng thương lượng tập thể không thành nhằm tránh việc thương lượng kéo dài làm tốn kém thời gian, tiền bạc đưa ra hướng giải quyết khi thương lượng tập thể không thành. Ngoài ra, Bộ luật lao động năm 2019 đã quy định mới về nguyên tắc quy trình tiến hành thương lượng tập thể ngành thương lượng tập thể nhiều doanh nghiệp tham gia hay thương lượng tập thể nhiều doanh nghiệp tham gia thông qua Hội đồng thương lượng tập thể

thể thấy, đối với tiêu chuẩn tự do liên kết thương lượng tập thể, Bộ luật lao động năm 2019 đóng vai trò quan trọng, mở đường cho việc thực hiện một cách đầy đủ tiêu chuẩn này của ILO. Bộ luật đã tạo khung pháp tính đột phá hơn so với cách tiếp cận trong Bộ luật lao động năm 2012 về quyền tự do lập hội thương lượng tập thể của người lao động..

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com